Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Toàn tập C.Mác và Ph. Ăng - ghen tập 4
PREMIUM
Số trang
427
Kích thước
6.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1317

Toàn tập C.Mác và Ph. Ăng - ghen tập 4

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

C.MÁC

PH.ĂNG-GHEN

TOÀN TẬP

4

W

NHÀ XUẤT BẢN C H É pjT R I fíüóc GIA

1 1

HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN TOÀN TẬP C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN

GS. Nguyễn Đức Bình Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng cộng

sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng

GS. Đặng Xuân Kỳ Uỷ viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam,

Viện trưởng Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin

và tư tưởng Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch (thường trực)

Hội đồng

GS. PTS. Trần Ngọc Hiên Phó giám đốc Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, uỷ viên

PGS. Hà Học Hợi Phó trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương Đảng

cộng sản Việt Nam, uỷ viên

GS. PTS. Phạm Xuân Nam Phó giám đốc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn

quốc gia, uỷ viên

GS. Trần Nhâm Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản chính trị quốc

gia, uỷ viên

GS. Trần Xuân Trường Trung tướng, Viện trưởng Học viện chính trị - quân

sự, uỷ viên

C.MÁC

PH.ĂNG-GHEN

TOÀN TẬP

TẬP 4

(THÁNG NĂM 1846 - THÁNG BA 1848)

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

SỰ THẬT

HÀ NỘI - 1995

2 3

3 5

4 7

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Tập 4 của bộ Toàn tập C.Mác và Ph. Ăng-ghen bao gồm các tác phẩm của hai

nhà kinh điển viết trong thời gian từ tháng Năm 1846 đến tháng Ba 1848.

Đây là thời kỳ hoàn thành về cơ bản quá trình hình thành chủ nghĩa Mác.

Những tác phẩm in trong tập này chứa đựng những luận điểm cơ bản của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cơ sở triết học của chủ

nghĩa cộng sản khoa học. Đi sâu phân tích các quan hệ kinh tế trong xã hội tư

bản chủ nghĩa và nghiên cứu một cách có phê phán các tác phẩm của các nhà

kinh tế học tư sản, hai nhà kinh điển đã tiến thêm một bước mới: xây dựng

khoa kinh tế chính trị mác-xít, một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác.

Trên cơ sở khái quát về mặt lý luận kinh nghiệm của phong trào công nhân

cách mạng, hai ông đã xây dựng nên một cách cụ thể hơn những luận điểm chủ

yếu của chủ nghĩa Mác về vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản, về

chuyên chính vô sản, về đảng cộng sản, về sách lược đấu tranh của giai cấp công

nhân, v.v..

Tập này được dịch dựa vào bản tiếng Nga bộ Toàn tập C.Mác và Ph. Ăng￾ghen, t.4, do Nhà xuất bản sách chính trị quốc gia Liên Xô xuất bản tại Mát-xcơ￾va năm 1955. Ngoài phần chính văn, chúng tôi còn in kèm theo phần chú thích và

các bản chỉ dẫn do Viện nghiên cứu chủ nghĩa MácLênin Liên Xô (trước đây)

biên soạn để bạn đọc tham khảo.

Đồng thời với việc xuất bản bộ Toàn tập C.Mác và Ph. Ăng-ghen chúng tôi

sẽ tổ chức biên soạn sách giới thiệu nội dung mỗi tập và các tư tưởng cơ bản

trong các tác phẩm chính của hai nhà kinh điển.

Tháng 5-1995

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

4 9

C.MÁC VÀ PH. ĂNG-GHEN

THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ1

Cuộc họp của những người cộng sản có tên sau đây: ¨ng-ghen,

Gi-gô, Hanh-béc, Mác, Dai-lơ, Vai-tlinh, Phôn Ve-xtơ-pha-len và

Vôn-phơ để bàn về tờ báo tiếng Đức xuất bản ở Niu Oóc.

"Volks - Tribun"2

do Héc-man Cri-ghê chủ biên

đã nhất trí - trừ có một mình Vai-tlinh là người "đã biểu quyết phản

đối" - thông qua nghị quyết dưới đây, được trình bày rõ trong phần

phụ lục.

Nghị quyết:

1) Xu hướng mà Héc-man Cri-ghê, tổng biên tập báo "Volks -

Tribun" tuyên truyền trên báo đó không phải là xu hướng cộng sản.

2) Cái cách phô trương kiểu con nít mà Cri-ghê dùng để tuyên

truyền cho xu hướng đó, hết sức làm tổn hại đến uy tín của đảng

cộng sản ở châu Âu cũng như ở châu Mỹ, vì rằng Cri-ghê được coi là

một đại biểu của giới trước tác của chủ nghĩa cộng sản Đức ở Niu

Oóc.

3) Những lời nhảm nhí hoang đường, đa cảm mà Cri-ghê nhân

danh "chủ nghĩa cộng sản" truyền bá ở Niu Oóc, sẽ làm cho công

10 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 4 THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ 11

nhân ngã lòng nản chí một cách cao độ, nếu như họ tiếp thu chúng.

4) Bản nghị quyết này cùng phần luận chứng của nó sẽ được

thông báo tới những người cộng sản ở Đức, ở Pháp và ở Anh.

5) Một bản được gửi tới ban biên tập báo "Volks - Tribun" kèm

theo yêu cầu cho đăng nghị quyết này cùng phần luận chứng của nó

trên những số báo sắp tới của tờ báo.

Bruy-xen, ngày 11 tháng Năm 1846

Ăng-ghen, Ph.Gi-gô,

Lu-i Hanh-béc, C.Mác, Dai-lơ,

Phôn Ve-xtơ-pha-len, Vôn-phơ

PHẦN THỨ NHẤT

VIỆC BIẾN CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN THÀNH

NHỮNG LỜI MÊ SẢNG VỀ TÌNH YÊU

Báo "Volks - Tribun" số 13 có một bài nhan đề "Gửi chị em phụ

nữ".

1) "Phụ nữ là những đệ tử của tình yêu".

2) "Chính là tình yêu đã phái chúng ta tới đây".

3) "Những môn đệ của tình yêu".

a) Một bản in-te-mét-xô1* bằng văn xuôi: "Những ánh mắt nồng

cháy của lòng nhân đạo"; "những âm thanh của chân lý".

b) Tính chất giả dối và dốt nát của captatio benevolentiae2* của

người phụ nữ: "Thậm chí trong bộ trang phục nữ hoàng chị em cũng

vẫn cứ là phụ nữ... chị em cũng chưa học được cách lợi dụng nước mắt

những kẻ bất hạnh. Các bạn quá ư tốt bụng cho nên không thể vì lợi

ích của mình mà mặc cho đứa trẻ bất hạnh chết đói trên tay bà mẹ".

4) "Tương lai của đứa trẻ được yêu thương".

5) "Những chị em được yêu".

6) "Ồ, hãy nghe chúng tôi, tình yêu sẽ bị chị em phản bội, nếu

như chị em không làm điều đó".

7) "Dành cho tình yêu".

1*

- bản nhạc xen kẽ giữa hai lớp trong vở nhạc kịch

2*

- mưu toan gây được sự cảm tình

12 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 4 THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ 13

8) "Bằng tình yêu".

9) "Vì tình yêu".

10) "Sự nghiệp thiêng liêng nhất của tình yêu mà chúng tôi kêu

gọi chị em hướng tới" (mong mỏi).

c) Một đoạn văn tầm thường mang tinh thần kinh thánh: "Phụ nữ

vốn mang sứ mạng đẻ ra những đứa con của nhân loại", điều này

tương đồng với sự khẳng định: đàn ông không đẻ con.

11) "Tinh thần thiêng liêng cộng đồng tất phải phát triển từ trái

tim chứa chan y ê u t h ư ơ n g ".

d) Ave Maria1* như một câu đệm: "Chị em phụ nữ, chị em là

những người có phúc, có đại phúc vì rằng chị em được trao bổn

phận đem lại sự thiêng liêng đầu tiên cho cái vương quốc hạnh

phúc đã được tiên đoán từ lâu".

12) "Những chị em được yêu" :

13) "Thay cho tình yêu là lòng hận thù" (sự tương phản giữa

xã hội tư sản với xã hội cộng sản).

14) "Ôi những người được yêu!".

15) "Đưa tình yêu lên ngai vàng".

16) "Những con người hăng hái được gắn bó bởi tình yêu

thương lẫn nhau".

17) "Những đệ tử chân chính của tình yêu".

e) Pa-ran-te2* thẩm mỹ học: "Nếu như tâm hồn rung động

của chị em hãy còn chưa quên thực hiện những chuyến bay kỳ

diệu" (trò ảo thuật mà khả năng thực hiện nó còn cần phải

chứng minh).

18) "Thế giới của tình yêu".

1*

- Lạy Đức bà Ma-ri-a (câu đầu trong bài cầu nguyện của đạo Thiên chúa)

2*

- mấy lời trong ngoặc đơn, phụ chú

19) "Vương quốc của lòng hận thù và vương quốc của tình yêu".

f) Đã có mưu toan lường gạt phụ nữ: "Bởi thế mà cả trong

lĩnh vực chính trị chị em cũng có tiếng nói rất có trọng lượng.

Chỉ cần chị em sử dụng ảnh hưởng của mình - thế là toàn bộ cái

vương quốc rệu rã của lòng hận thù sẽ đổ sụp để dọn chỗ cho

một vương quốc mới của tình yêu".

g) Tiếng kèn chào mừng mang tinh thần triết học mà mục

đích của nó là át tiếng nói của lý trí: "một tâm trạng tự thoả

mãn yên bình muôn thuở của toàn nhân loại - đấy là mục tiêu

cuối cùng của hoạt động của chị em".

20) "Tình yêu của chị em". Đó là lý do để đòi hỏi ở phụ nữ

một tình yêu "khá lớn" để "họ làm cho tình yêu đó đến với tất

cả mọi người, với một tinh thần quên mình như nhau" - một

đòi hỏi thật là quá quắt và bất nhã.

h) Điệp khúc: "Hàng ngàn trẻ em mồ côi bị bỏ rơi đang diệt

trừ những tình cảnh khủng khiếp mà chúng bị đẩy vào". Cái

"khủng khiếp" ở đây là ở chỗ nào? Có phải ở chỗ "những trẻ

mồ côi" đang diệt trừ "những tình cảnh", hay là ở chỗ "những

tình cảnh" đang giết chết "trẻ mồ côi"?

i) Một chính sách cộng sản mới được bộc lộ rõ: "Chúng ta

không muốn xâm phạm tới tài sản riêng dù là của bất kỳ ai;

hãy mặc cho kẻ cho vay nặng lãi giữ lấy những gì đã thuộc về

y; chúng ta chỉ muốn ngăn ngừa việc tiếp tục lấy cắp t ài sản

quốc dân và ngăn chặn tư bản rồi đây vẫn cứ tước đoạt của lao

động tài sản hợp pháp của lao động". Mục đích này cần phải

đạt được bằng cách như sau: "Mỗi người nghèo lập tức biến

thành một thành viên hữu ích của xã hội loài người một khi

người ta đảm bảo cho anh ta có khả năng lao động sản xuất". (Theo

cách nói đó, thì không một ai lại có công lao to lớn đối với "xã hội loài

người" hơn là các nhà tư bản, kể cả những nhà tư bản Niu Oóc mà

Cri-ghê vô cùng căm ghét.) "Cái khả năng ấy sẽ được đảm bảo vĩnh viễn

14 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 5 THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ 15

đối với anh ta, nếu như xã hội cấp cho anh ta một mảnh đất,

trên đó anh ta có thể nuôi sống bản thân và gia đình... Nếu

như số diện tích đất đai rộng lớn này" (tức l à 1 400 triệu a￾cơ-rơ ruộng đất của nhà nước Bắc Mỹ) "được tách khỏi lưu

thông thương mại và được cấp cho lao động với số lượng hạn

chế, thì khi đó cảnh khốn cùng ở Mỹ sẽ được chấm dứt ngay

lập tức, vì mỗi người sẽ có được khả năng dùng đôi bàn tay

của mình xây dựng cho mình một tổ ấm bất khả xâm phạm".

Có thể trông đợi một sự nhận thức rằng các nhà lập pháp

không thể dùng những sắc lệnh để ngăn chặn việc chế độ gia

trưởng, - mà Cri-ghê mong muốn, - phát triển thành chế độ

công nghi ệp hoặc đẩy những bang công nghiệp và thương

nghi ệp trên bờ biển phía đông lùi trở lại tình trạng dã man

gia trưởng. Trong khi đó thì để đón cái giờ phút mà niềm

hạnh phúc mô tả ở trên sẽ tới, Cri-ghê lại chuẩn bị bài thuyết

giáo kiểu cha cố miền đồng quê như sau: "Và khi đó chúng ta

sẽ có thể dạy cho con người sống hoà thuận với nhau, làm

giảm nhẹ cho nhau tất cả những nỗi cực nhọc và khó khăn

trong cuộc sống và

21) dựng xây trên trái đất những thôn xóm đầu tiên của tình

yêu thiên đường" (mỗi thôn xóm rộng vừa đúng bằng 160 a-cơ￾rơ).

Cri-ghê kết thúc lời kêu gọi của ông ta gửi các chị em đã có

chồng bằng những lời lẽ sau đây: "Trước hết chị em hãy

hướng về

22) những người chồng đầy yêu thương của mình,

hãy cầu xin họ từ bỏ chính sách cũ... hãy chỉ cho họ thấy

những đứa con của họ, hãy van xin họ nên vì những đứa con"

(thiếu trí khôn) "của họ mà tỉnh ngộ lại". Tiếp đó, hướng về

những "cô gái trẻ", Cri-ghê nói: "Mong rằng đối với

23) những người yêu của chị em

việc giải phóng ruộng đất sẽ là hòn đá thử vàng đối với

nhân phẩm của họ, và đừng có cả tin vào

24) tình yêu của họ,

chừng nào họ còn chưa thề trung thành với nhân loại". (Điều

này nghĩa là thế nào?) Và nếu như các cô gái trẻ sẽ có một thái

độ đúng đắn thì ông ta đảm bảo với họ rằng con cái của họ

25) "sẽ là những người giàu tình yêu thương, như chính họ"

(có ý muốn nói tới "những con chim trên thiên đường"), và kết

thúc bài ca đơn điệu của ông ta bằng việc lại nhắc tới

26) "những đệ tử chân chính của tình yêu", tới "vương quốc

vĩ đại của tinh thần cộng đồng" và tới "sự thiêng liêng".

"Volks - Tribun" số 13 - "Trả lời Dôn-tơ":

27) "Nó" (tinh thần cộng đồng vĩ đại), "như ngọn lửa tình

yêu, bừng cháy trong ánh mắt người anh em".

28) "Người phụ nữ sẽ là thế nào nếu thiếu người đàn ông mà

cô ta có thể yêu, mà cô ta có thể trao tặng cả tâm hồn rung

động của mình?"

29) "Lấy tình yêu đoàn kết tất cả mọi người".

30) "Tình yêu của người mẹ".

31) "Lòng thương người".

32) "Mọi âm thanh đầu tiên của tình yêu".

33) "Những tia sáng của tình yêu".

k) Mục đích của chủ nghĩa cộng sản là làm cho "toàn bộ

cuộc sống của loài người phục tùng những nhịp đập của nó"

(trái tim nhạy cảm).

34) "Tiếng nói của tình yêu câm lặng trước tiếng kêu của

đồng tiền".

35) "Bằng tình yêu và lòng hy sinh quên mình có thể đạt

được mọi cái".

Như vậy riêng chỉ trên một số báo này, theo những tính toán

16 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 6 THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ 17

sơ sài nhất, chúng ta gặp tình yêu dưới ba mươi lăm dạng.

Phù hợp với những lời huyên thuyên về tình yêu đó, trong bài

"Trả lời Dôn-tơ" và ở những chỗ khác, Cri-ghê đã miêu tả chủ

nghĩa cộng sản như một cái gì chứa chan tình yêu và đối lập

với chủ nghĩa ích kỷ, và quy phong trào cách mạng có ý nghĩa

lịch sử toàn thế giới vào mấy từ: tình yêu - lòng căm thù, chủ

nghĩa cộng sản - chủ nghĩa ích kỷ. Ở đây còn có cả thái độ

hèn nhát mà ông ta thể hiện ra khi ông ta quỵ luỵ trước t ên

cho vay nặng l ãi, hứa để nguyên cho hắn những gì đã thuộc

về hắn, hoặc khi ông ta thề thốt ở dưới đây rằng ông ta không

có ý định "phá vỡ tình gắn bó êm ái với cuộc sống gia đình,

với tổ quốc, với dân tộc" , mà "chỉ" muốn "thể hiện nó vào đời

sống". Sự miêu tả một cách hèn nhát và giả dối đó về chủ

nghĩa cộng sản, coi chủ nghĩa đó không phải là "sự phá hoại"

mà là "sự thể hiện vào đời sống" những quan hệ xấu xa hiện

đang tồn tại, cùng với tất cả những ảo tưởng về chúng mà các

nhà tư sản tạo ra cho mình - sự miêu tả ấy đã quán triệt trong

tất cả các số báo "Volks - Tribun". Ăn khớp với thái độ giả dối và

hèn nhát đó là lập trường mà Cri-ghê bám giữ trong những cuộc

tranh luận với các nhà chính trị. Ông ta coi (trong số 10) việc viết

bài chống lại các chính khách có đầu óc ảo tưởng say mê với đạo

Thiên chúa, kiểu như La-mơ-ne và Bớc-nơ, là một lỗi lầm chống lại

chủ nghĩa cộng sản; từ đó ta thấy rõ rằng những người như Pru￾đông, Ca-bê, Đê-da-mi, - tóm lại, tất cả những người cộng sản

Pháp, - đều "chỉ" là "những người mang cái tên cộng sản mà thôi".

Về việc những người cộng sản Đức đã tách xa khỏi Bớc-nơ, cũng

như những người cộng sản Pháp tách xa La-mơ-ne thì về việc này

Cri-ghê cũng có thể tìm hiểu ngay ở Đức, ở Bruy-xen và Luân Đôn.

Mong rằng ông Cri-ghê tự suy nghĩ xem những lời mê sảng

về tình yêu đó sẽ gây tác động làm suy yếu như thế nào đối với cả

hai giới và làm cho "các cô gái trẻ" mắc bệnh loạn thần kinh

phổ biến và bệnh thiếu máu tới mức nào.

PHẦN THỨ HAI

KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ

CỦA TỜ "VOLKS-TRIBUN" VÀ THÁI ĐỘ CỦA NÓ

ĐỐI VỚI TỔ CHỨC "NƯỚC MỸ TRẺ"3

Chúng ta hoàn toàn thừa nhận phong trào của những nhà cải

lương dân tộc Mỹ là hợp lý về mặt lịch sử. Chúng ta biết rằng

phong trào này nhằm đạt tới một kết quả mà thực ra, trong giờ

phút này sẽ thúc đẩy chủ nghĩa công nghiệp của xã hội tư sản

hiện đại phát triển, nhưng là thành quả của phong trào vô

sản, kết quả đó - với tư cách là đòn tấn công vào chế độ sở hữu

ruộng đất nói chung và đặc biệt là trong những điều kiện đang

tồn tại hiện nay ở Mỹ - tất nhiên phải đi xa hơn nữa, do những

hậu quả của bản thân nó, tới chủ nghĩa cộng sản. Cri-ghê là

người đã cùng những người cộng sản Đức ở Niu Oóc tham gia

phong trào chống địa tô [Anti-Rent-Bewegung], Cri-ghê lại

đem những lời văn cộng sản, khoa trương hợp thời thượng

khoác cho cái sự kiện đơn giản đó mà không đi sâu nghiên cứu chính

nội dung của phong trào. Qua việc này, ông ta chứng tỏ rằng ông ta

hoàn toàn không hiểu rõ mối liên hệ giữa tổ chức "Nước Mỹ trẻ" và

những điều kiện xã hội ở Mỹ. Ngoài những chỗ cá biệt mà chúng tôi

đã có dịp trích dẫn, chúng tôi lấy thêm một thí dụ nữa chứng tỏ ông

ta dùng những lời văn khoa trương về phúc lợi của toàn thể nhân

loại để tô vẽ cho những kế hoạch chia ruộng đất thành những mảnh nhỏ

18 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 7 THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ 19

trên phạm vi cả nước Mỹ mà phong trào đòi cải cách ruộng

đất đề xướng ra.

Trong số 10 của báo "Volks - Tribun" bài "Chúng ta muốn

gì" có nói:

"Họ" - t ức là những nhà cải lương dân tộc Mỹ - "gọi ruộng đất l à t ài sản chung

của tất cả mọi người... và yêu cầu cơ quan l ập pháp của nhân dân thi hành những biện

pháp nhằm duy trì 1400 triệu a-cơ-rơ ruộng đất còn chưa rơi vào tay bọn đầu cơ - ăn

cướp - để làm tài sản chung và không thể chuyển nhượng cho toàn thể nhân loại".

Và thế là để "duy trì cho toàn thể nhân loại" "số tài sản chung

và không thể chuyển nhượng" đó, ông ta chấp nhận kế hoạch của

các nhà cải lương dân tộc: "cấp cho mỗi nông dân, dù anh ta xuất

thân từ nước nào đi nữa, 160 a-cơ-rơ ruộng đất ở Mỹ để nuôi sống

anh ta". Trong số 14, trong bài "Trả lời Côn-txơ", kế hoạch này được

trình bày như sau:

"Trong số tài sản quốc dân còn chưa bị động chạm t ới đó không một ai được lĩnh

quá 160 a-cơ-rơ, và ngay cả số ruộng đất này cũng chỉ được lĩnh với điều kiện là anh ta

phải tự canh tác chúng".

Như vậy, nhằm mục đích duy trì ruộng đất làm "tài sản chung

không thể chuyển nhượng" mà lại là của "toàn thể nhân loại", thì

phải bắt đầu ngay từ việc phân chia số ruộng đất ấy. Cri-ghê tưởng

tượng rằng ông ta có thể dùng một đạo luật nào đó để cấm xuất

hiện những hậu quả tất yếu của việc phân lại này: sự tích tụ hoá,

sự tiến bộ của công nghiệp, v.v.. Ông ta hình dung 160 a-cơ-rơ ruộng

đất như một cái gì tự nó đã ngang bằng nó, như thể giá trị của mỗi

khoảnh đất như thế sẽ chẳng khác nhau xét về chất lượng của nó. Cái

mà "nông dân" sẽ đem trao đổi với nhau và với những người khác nếu

như không phải là bản thân ruộng đất, thì là những sản phẩm của ruộng

đất. Mà một khi đã đi tới tình trạng đó thì lập tức sẽ có tình hình là một

"nông dân", dù cho không có tư bản, nhưng nhờ vào lao động của anh ta

và 160 a-cơ-rơ ruộng đất của anh ta có độ phì nhiêu tự nhiên lớn thì vẫn

sẽ đẩy người nông dân khác xuống địa vị người cố nông làm thuê

cho anh ta. Rồi sau nữa, dù là "ruộng đất" hay sản phẩm của ruộng

đất "sẽ rơi vào tay bọn đầu cơ - ăn cướp" - thì hai điều đó chẳng lẽ

lại không như nhau cả hay sao?

Ta hãy xem xét kỹ cái món quà mà Cri-ghê đem tặng cho nhân

loại.

1 400 triệu a-cơ-rơ phải được "duy trì làm tài sản chung không

thể chuyển nhượng của toàn thể nhân loại". Đồng thời mỗi "nông

dân" cần được cấp 160 a-cơ-rơ. Bởi vậy, chúng ta có thể tính được

"nhân loại" của Cri-ghê lớn đến chừng nào: đúng 83/4 triệu "nông

dân" hoặc, nếu cho rằng mỗi gia đình có 5 người, thì sẽ có 433/4 triệu

người. Chúng ta cũng có thể tính được "thời gian vĩnh viễn" này, -

trong đó "giai cấp vô sản với tư cách là đại diện cho nhân loại", ít ra

là ở Hợp chúng quốc Bắc Mỹ, phải "chiếm hữu toàn bộ đất đai", - sẽ

kéo dài được bao lâu. Nếu như dân số Hợp chúng quốc Bắc Mỹ sẽ

tăng lên gấp đôi cũng nhanh như từ trước tới nay (tức là cứ sau 25

năm lại tăng gấp đôi) thì khi ấy "thời gian vĩnh viễn" này sẽ kéo dài

không đầy 40 năm. Trong 40 năm con số 1 400 triệu a-cơ-rơ đó sẽ

bị chiếm hữu hết cả, và các thế hệ kế tiếp sẽ chẳng còn gì để mà

"chiếm hữu". Nhưng vì việc cấp không món quà ruộng đất sẽ thúc

đẩy rất mạnh làn sóng nhập cư, nên "thời gian vĩnh viễn" của Cri￾ghê có thể còn kết thúc sớm hơn, đặc biệt nếu tính đến một điều là

số ruộng đất để chia cho 44 triệu người thậm chí cũng không đủ

giải quyết được tình trạng bần cùng hiện nay ở châu Âu với tính

cách là lối thoát cho tình trạng bần cùng đó. Ở châu Âu cứ 10 người

thì có một người bần cùng: riêng trên các đảo nước Anh đã có tới 7

triệu người bần cùng. Sự ngây thơ như vậy về mặt kinh tế chính trị

ta còn thấy trên số báo 13, trong bài "Gửi chị em phụ nữ", trong đó

Cri-ghê nói rằng nếu như thành phố Niu Oóc cho đi 52 000 a-cơ-rơ

đất đai của mình ở Lông-Ai-len thì ngay chuyện đó cũng sẽ đủ để "lập

20 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 8 THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ 21

tức" giải thoát vĩnh viễn cho Niu Oóc khỏi mọi cảnh bần cùng,

nghèo đói và phạm tội ác.

Nếu như Cri-ghê nhìn nhận phong trào nhằm giải phóng ruộng

đất như một hình thức ban đầu và tất yếu trong những điều kiện

nhất định của phong trào vô sản, nếu như ông ta đánh giá phong

trào đó như một phong trào mà do tình hình đời sống của cái giai

cấp khởi xướng ra nó, tất yếu phải phát triển lên nữa thành phong

trào cộng sản, nếu như ông ta vạch ra cho thấy rằng những khuynh

hướng cộng sản ở Mỹ ban đầu phải được thể hiện như thế nào dưới

hình thức ruộng đất mà mới thoạt nhìn thì hình thức ấy mâu thuẫn

với bất kỳ chủ nghĩa cộng sản nào, nếu vậy thì chẳng có gì để

phản đối điều đó. Đằng này Cri-ghê lại tuyên bố rằng hình thức

phong trào này của một số người thực sự nào đó - chỉ có ý nghĩa

thứ yếu - là sự nghiệp của nhân loại nói chung. Cri-ghê gọi sự

nghiệp đó - mặc dù ông ta thừa biết là điều này mâu thuẫn với sự

thật, - là mục tiêu cuối cùng, cao nhất của bất kỳ phong trào nào

nói chung, qua đó biến những mục tiêu nhất định của phong trào

thành những lời phô trương hoàn toàn vô nghĩa.

Cũng trong bài báo đăng trên số 10 ông ta ca vang những khúc

khải hoàn như:

"Như vậy là rút cục, những ước mơ từ lâu đời của người châu Âu sẽ được thực hiện, ở

bên này bờ đại dương sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho họ số ruộng đất mà họ sẽ chỉ còn có việc

nhận lấy và dùng sức lao động của đôi bàn tay mì nh làm cho nó khai hoa kết quả, để

ném vào mặt tất cả bọn bạo chúa trên thế giới lời tuyên bố đầy tự hào:

Đây nếp nhà của tôi,

Không phải do các người dựng xây,

Đây tổ ấm của tôi,

Làm cho lòng các người ghen tỵ ứ đầy".

Cri-ghê lẽ ra có thể bổ sung: đây đống phân của tôi do tôi, vợ

con tôi, cố nông của tôi và gia súc của tôi tạo ra. Và những người

châu Âu nào sẽ thấy ở đó sự thực hiện "những ước mơ" của mình?

Có điều đó không phải là những công nhân cộng sản! Có chăng thì

đó chính là những chủ hiệu nhỏ và những thợ cả phường hội bị vỡ

nợ hoặc những nông dân bị phá sản, đang cố vươn tới cái hạnh

phúc được trở lại thành những người tiểu tư sản và nông dân ở Mỹ!

Và cái "ước mơ" được thực hiện nhờ vào 1 400 triệu a-cơ-rơ đó, là

gì? Chẳng phải cái gì khác hơn là biến tất cả mọi người thành

những kẻ tư hữu. Điều ước mơ như thế cũng không thể thực hiện

được và cũng chỉ mang tính chất cộng sản như ước mơ muốn biến

tất cả mọi người thành những ông vua, ông chúa và giáo hoàng. Ở

đây còn có thể lấy đoạn dưới đây làm đoạn kết cho những gì mà

Cri-ghê đã quan niệm về những phong trào cách mạng cộng sản

chủ nghĩa và về những quan hệ kinh tế:

"Trong mỗi nghề mỗi người ít ra phải l uyện được tay nghề thuần thục để anh t a -

trong trường hợp nếu như anh ta bị một tai hoạ nào đó đẩy ra khỏi xã hội l oài người -

thì khi cần có thể t ự sống trong một thời gian mà không cần tới sự giúp đỡ của người

khác".

Dĩ nhiên là, cái việc kể tràng giang đại hải về "tình yêu" và về

"lòng hy sinh quên mình" thì dễ hơn nhiều so với việc nghiên cứu sự

phát triển của các quan hệ hiện thực và những vấn đề thực tiễn.

PHẦN THỨ BA

NHỮNG LỜI HUÊNH HOANG SIÊU HÌNH

Báo "Volks - Tribun" số 13 - "Trả lời Dôn-tơ".

1) Trong bài báo này Cri-ghê khẳng định rằng ông ta "không

quen làm trò nhào lộn thăng bằng về lô-gích trong bãi sa mạc cằn

cỗi của các khái niệm trừu tượng". Tuy nhiên bất kỳ số báo "Volks -

22 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 9 THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ 23

Tribun" nào cũng đều chứng minh được rằng Cri-ghê đang chơi đúng

cái "trò nhào lộn trên cầu thăng bằng" - tuy không phải là về "lô-gích" -

bằng những câu văn triết lý và đa cảm.

2) Luận điểm "con người riêng biệt sống một cách cá thể" (điều

này đã là vô nghĩa) được Cri-ghê diễn tả bằng "trò nhào lộn thăng

bằng" phi lô-gích sau đây: "hiện giờ loài người nói chung vẫn chỉ

được hiện thân qua những cá nhân mà thôi".

3) "Việc chấm dứt tình trạng hiện nay của các sự vật" phải phụ

thuộc vào "sự suy xét của tinh thần sáng tạo của nhân loại" - cái tinh

thần không tồn tại ở đâu cả.

4) Lý tưởng của con người cộng sản là như sau: "Anh ta mang

trên mình dấu ấn của loài người" (thì bây giờ đối với người nào mà

không thể nói chính cái điều ấy?), "xác định những mục đích của

chính anh ta phù hợp với những mục tiêu của loài người" (như thể

loài người là một cá nhân nào đấy có thể có những mục tiêu của

mình!) "và cố gắng trở nên hoàn toàn là bản thân mình chỉ vì để có

khả năng hiến dâng cho loài người toàn bộ bản thân anh ta trong tư

thế hiện nay và sau này" (một sự quyên sinh và tự hạ mình hoàn

toàn trước một bóng ma tưởng tượng nào đó).

5) Mối quan hệ giữa một con người riêng lẻ với loài người cũng

được nhận định bằng những lời phô trương vô nghĩa sau đây: "Tất cả

chúng ta, cũng như hoạt động cá nhân của chúng ta, chỉ là những

triệu chứng của một quá trình vận động vĩ đại diễn ra ở sâu trong

lòng nhân loại". "Sâu trong lòng nhân loại" - ở đâu vậy? Theo như

câu nói này thì những con người thực chỉ là những "triệu chứng",

những dấu hiệu phân biệt của "sự vận động" diễn ra trong "lòng" một

thế giới hoang đường.

6) Cuộc đấu tranh cho xã hội cộng sản chủ nghĩa bị vị mục sư nhà

quê ấy biến thành "những cuộc tìm kiếm tinh thần cộng đồng vĩ đại"

mà ông ta bắt tinh thần đó phải "phát ra những màu sắc diệu kỳ trong

chiếc chén dâng đồ cúng tế" và giống như "vị thần linh thiêng bừng

cháy trong ánh mắt của người anh em".

Sau khi phong trào cộng sản cách mạng bị biến như vậy

thành "những cuộc tìm kiếm" thần linh và bánh thánh linh

thiêng, hẳn là Cri-ghê cũng có thể khẳng định rằng "chỉ cần nhận

thức được" cái tinh thần đó "để dùng tình yêu đoàn kết tất cả mọi

người lại".

7) Đi trước cái kết luận siêu hình đó là sự lẫn lộn giữa chủ

nghĩa cộng sản với bánh thánh1* như sau: "Cái tinh thần chiến

thắng thế giới, cái tinh thần chế ngự bão tố và mưa dông (!!!!),

cái tinh thần làm sáng mắt người mù, làm người hủi khỏi

bệnh, cái tinh thần cho tất cả mọi người uống cùng một thứ

rượu" (chúng ta ưa thích các loại rượu khác nhau hơn) "và ăn

chung một thứ bánh mì" (các nhà cộng sản Pháp và Anh khó

tính hơn), "cái tinh thần vĩnh cửu và có mặt khắp nơi, - đấ y

chính là tinh thần cộng đồng". Nếu như cái "tinh thần" đó

đúng thực là "vĩnh cửu và có mặt khắp nơi" thì hoàn toàn

không thể hiểu nổi là, nếu hiểu theo Cri-ghê, lấy gì để có

thể giải thích sự tồn tại lâu dài đ ến như vậy của quyền tư

hữu. Thực ra, cái tinh thần đó không đ ược "nhận thức" và vì

vậ y chỉ l à "vĩnh cửu và có mặt khắp nơi" trong trí tưởng tượng

của riêng bản thân Cri-ghê mà thôi.

Như vậy, ở đây Cri-ghê dưới danh nghĩa cộng sản đang tuyên

truyền cái luận điệu triết học hoang đường cũ, mang tính chất tôn

giáo của Đức, luận điệu này trực tiếp mâu thuẫn với chủ nghĩa

cộng sản. Niềm tin, mà chính là niềm tin vào "tinh thần cộng

đồng thiêng liêng", - đó là cái mà chủ nghĩa cộng sản ít cần đến

nhất cho sự thực hiện chủ nghĩa cộng sản.

1* Chơi chữ: "Kommunismus" - "chủ nghĩa cộng sản", "Kommunion" - "bánh

thánh".

24 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 10 THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ 25

PHẦN THỨ TƯ

SỰ VE VÃN TÔN GIÁO

Những lời huyên thuyên của Cri-ghê về tình yêu và những

lời ông ta công kích chủ nghĩa ích kỷ, hiển nhiên, chẳng phải

là cái gì khác mà chỉ là những lời bộc bạch phô trương của

một tâm hồn hoàn toàn thấm đượm tôn giáo. Ngay dưới đây

chúng ta sẽ thấ y Cri-ghê, một người ở châu Âu luôn luôn tỏ

ra mình là nhà vô thần, ở đây đương mưu toan, núp dưới

chiêu bài r ẻ tiền chủ nghĩa cộng sản, thực hiện tất cả những

điều đê tiện của đạo Thiên chúa và kết thúc - một cách hoàn

toàn nhất quán - bằng sự tự xỉ nhục của con người.

Trong số 10, những bài "Chúng ta muốn gì" và "Héc￾man Cri-ghê gửi Ha-rô Ha-rinh" khẳng định mục đích của

cuộc đấu tranh cộng sản chủ nghĩa như sau:

1) "Làm cho tôn giáo của tình yêu trở thành chân lý và

biến cộng đồng của những kẻ an lạc trên thượng giới mà ta

hằng trông đợi từ lâu thành hiện thực". Chỉ có điều là Cri-ghê

không nhận thấy rằng những ước mơ mang tính chất Cơ Đốc

giáo này chỉ là sự biểu hiện một cách hoang đường cho cái thế

giới hiện tại, rằng vì thế mà "tính hiện thực" của những ước

mơ đó đã thể hiện ra trong những quan hệ xấu xa của cái thế

giới hiện tại này.

2) "Nhân danh tôn giáo của tình yêu đó, chúng ta đòi hỏi để

kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ không tấm áo manh

quần được tấm áo manh quần" - cái đòi hỏi được nhắc đi nhắc

lại đến mụ cả người đã 1 800 năm nay mà không mảy may kết

quả gì.

3) "Chúng ta dạy cách thể hiện tình yêu" , để

4) "tiếp thụ tình yêu".

5) "Trong vương quốc tình yêu của họ không thể có ma quỷ gì

cả".

6) "Nhu cầu thiêng liêng nhất của anh ta" (con người) "là ở chỗ

hoàn toàn đem cả cá nhân mình hoà vào xã hội của những con

người yêu thương mà đối với họ anh ta không giữ lại gì, ngoài

7) lòng yêu vô hạn của anh ta". Có thể nghĩ rằng trong cái vô hạn

đó, lý luận về tình yêu đã đạt tới tột đỉnh của nó, cao đến mức

không còn có thể nghĩ ra được cái gì cao hơn nữa; nhưng hoá ra

lại còn có một cái gì đấy cao hơn.

8) "Sự thổ lộ tình yêu một cách nồng nghiệt đó, tinh thần sẵn

sàng xả thân vì mọi người đó, cái chí hướng cao đẹp vươn tới cộng

đồng đó là gì, - đó là gì nếu không phải thứ tôn giáo thầm kín nhất

của những người cộng sản, thứ tôn giáo mà chỉ còn thiếu có thế

giới bên ngoài thích hợp để nó có thể được biểu hiện trong toàn bộ

cuộc sống của loài người". Tuy nhiên, "thế giới bên ngoài" hiện đại

dường như tạo cho Cri-ghê đầy đủ khả năng để "tôn giáo thầm kín

nhất" của ông ta, "chí hướng cao đẹp" của ông ta, "tinh thần sẵn sàng

xả thân vì mọi người" của ông ta và "sự thổ lộ một cách nồng nhiệt"

của ông ta được "biểu hiện" rộng rãi nhất trong "toàn bộ cuộc sống

của loài người".

9) "Chẳng lẽ chúng ta lại không có quyền quan tâm thật sự tới

những mong muốn bấy lâu bị nén lại của trái tim tôn giáo và vì

những người nghèo khổ, những kẻ bất hạnh, những kẻ bị hắt hủi mà

bắt đầu cuộc đấu tranh để thực hiện cho kỳ được cái vương quốc

tuyệt đẹp của tình hữu ái anh em hay sao?" Và thế là Cri-ghê bắt

đầu đấu tranh cho việc quan tâm thật sự tới những mong muốn

của trái tim, nhưng trái tim này không phải là bình thường, thấp

hèn, mà là trái tim tôn giáo; nó không bị cảnh thiếu thốn trong thực

tế giày vò, mà là chứa chan những mơ tưởng êm đềm. "Tinh

thần tôn giáo của trái tim ông ta" lập tức được ông ta chứng

minh bằng sự việc là ông ta giống như vị mục sư, nhân danh

người khác, tức là nhân danh "những người nghèo khổ" mà lên

tiếng. Mở đầu cuộc đấu tranh bằng cách đó, ông ta cho thấ y

rõ rằng bản thân ông ta không cần đến chủ nghĩa cộng sản, rằng

26 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 11 THÔNG TRI CHỐNG CRI-GHÊ 27

ông ta tham gia vào cuộc đấu tranh này chỉ vì tinh thần xả thân cao

thượng, quên mình, lờ mờ vì "những người nghèo khổ, những kẻ bất

hạnh , những kẻ bị hắt hủi" cần tới sự giúp đỡ của ông ta. Cái

tình cảm cao đẹp này chan chứa trong tim con người đức độ đó

vào những giờ phút cô đơn và buồn tẻ, là liều thuốc giải độc cho

ông ta khỏi tất cả những nỗi đắng cay của cái thế giới tồi tệ.

10) "Đối với kẻ nào không ủng hộ một đảng như thế thì, theo lẽ

công bằng, người ta có thể đối xử như đối xử với kẻ thù của nhân

loại", - Cri-ghê kết thúc bài diễn văn hùng hồn của ông ta như vậy.

Câu văn đầy tính chất không khoan nhượng này dường như mâu

thuẫn với "tinh thần sẵn sàng xả thân vì mọi người", cũng như với

"tôn giáo của lòng yêu thương" mọi người. Nhưng nó là một kết

luận hoàn toàn nhất quán rút ra từ thứ tôn giáo mới đó, là thứ tôn

giáo, cũng như bất kỳ tôn giáo nào khác, căm thù không đội trời

chung và truy nã những kẻ thù của nó. Ở đây kẻ thù của đảng

được biến hoàn toàn triệt để thành kẻ dị giáo, bởi lẽ từ kẻ thù của

một đảng tồn tại trên thực tế, - kẻ thù mà người ta đang đấu tranh

chống lại, - người ta biến nó thành một kẻ tội phạm đáng bị trừng

phạt, kẻ đã mắc tội với nhân loại chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng

mà thôi.

11) Trong thư gửi Ha-rô Ha-rinh có đoạn viết: "Chúng tôi dự

định phát động tất cả những người nghèo nổi dậy chống lại thần

tài mà dưới ách của nó họ đã phải chịu số phận cực nhục; khi

nào chúng tôi lật đổ được tên bạo chúa đáng sợ khỏi chiếc ngai

vàng lâu đời của hắn, chúng tôi sẽ dùng tình yêu thương để đoàn

kết nhân loại lại, dạy họ cùng nhau lao động và cùng nhau hưởng

thụ những thành quả lao động để cho, cuối cùng cái vương quốc

của hoan lạc, đã được tiên đoán từ lâu, sẽ đến". Để thấm nhuần

lòng phẫn nộ trước uy lực ngày nay của đồng tiền, trước hết

Cri-ghê phải biến uy lực của đồng tiền thành thần tượng - thần

tài. Thần tượng ấ y sẽ bị lật đổ - bằng cách nào thì chưa rõ;

phong trào cách mạng của giai cấp vô sản tất cả các nước thì bị

quy thành một cuộc khởi nghĩa đơn nhất; khi việc lật đổ thần

tượng đó hoàn thành thì lúc đó các nhà tiên tri - "chúng tôi" - sẽ

lên tiếng "dạy" cho giai cấp vô sản biết cách tiếp tục hành động ra

sao. Những nhà tiên tri này "sẽ dạy" cho những tín đồ của họ - lúc

này đang tỏ ra không hiểu gì về quyền lợi của bản thân họ - cần

phải "cùng nhau lao động và cùng nhau hưởng thụ những thành

quả lao động" ra sao, và hơn nữa không chỉ để "cùng nhau lao

động và cùng nhau hưởng thụ những thành quả lao động" mà chủ

yếu là để cho những lời dạy trong kinh thánh được thực hiện

và những lời tiên tri của một số nhà ảo tưởng từng tiên đoán

1 800 năm trước đây, không bị uổng phí. - Cái kiểu dùng tới

thuật tiên tri đó còn gặp ở cả những chỗ khác nữa, thí dụ trong

số 8, ở các bài "Giai cấp vô sản là gì?" và "An-đrê-ác Đích". Đây

là những đoạn tiêu biểu:

a) "Hỡi những người vô sản, giờ giải phóng các bạn đã tới".

b) "Hàng nghìn trái tim hân hoan đập rộn ràng đón chào thời kỳ

vĩ đại thực hiện lời thề", tức là: đón chào cái "vương quốc vĩ đại

của tình yêu thương... vương quốc của tình yêu thương mà ta hằng

trông đợi bấy lâu".

c) Số báo 12, "Trả lời Cốc-xơ, kẻ thù của các cha cố":

"Thế là kinh Phúc âm đời đời cứu vớt thế giới được truyền tụng,

với lòng thành kính, từ miệng người này qua miệng người khác" và -

thậm chí  "từ tay này qua tay khác". Phép mầu đó diễn ra cùng với

"kinh Phúc âm được truyền đi, với lòng thành kính", những lời nhảm

nhí đó về sự "đời đời cứu vớt thế giới" hoàn toàn phù hợp với một

phép mầu khác là, trái với sự mong đợi, những lời tiên tri của những

người viết ra kinh Phúc âm thời cổ đã bị vứt bỏ từ lâu lại được thực

hiện ở Cri-ghê.

12) Nếu như đứng trên quan điểm tôn giáo đó thì lời giải đáp

cho tất cả mọi vấn đề đời sống thực tế chỉ có thể bao gồm một

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!