Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Toàn tập C.Mác và Ph. Ăng-Ghen tập 2
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
C.MÁC
VÀ
PH.ĂNG-GHEN
TOÀN TẬP
2
W
NHÀ XUẤT BẢN C H É pjT R I fíüóc GIA
4 9
VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC, ĐOÀN KẾT LẠI!
5 11
TOÀN TẬP C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN XUẤT BẢN
THEO QUYẾT ĐỊNH CỦA BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG ĐẢN
G
CỘNG SẢN VIỆT NAM
6 13
HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN TOÀN TẬP C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN
GS. Nguyễn Đức Bình Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng
GS.Đặng Xuân Kỳ Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam
Viện trưởng Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch (thường trực)
Hội đồng
GS.PTS. Trần Ngọc Hiên Phó giám đốc Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, uỷ viên
PGS. Hà Học Hợi Phó trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, uỷ viên
GS.PTS. Phạm Xuân Nam Phó giám đốc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia, uỷ viên
GS. Trần Nhâm Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản chính trị quốc
gia, uỷ viên
GS. Trần Xuân Trường Trung tướng, Viện trưởng Học viện chính trị - quân
sự, uỷ viên
C.MÁC
VÀ
PH.ĂNG-GHEN
TOÀN TẬP
TẬP 2
(THÁNG CHÍN 1844 - THÁNG HAI 1846)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
SỰ THẬT
HÀ NỘI - 1995
7 15
8 17
6 13
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Tập 2 của bộ Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng-ghen bao gồm những tác phẩm của
hai nhà kinh điển viết trong thời gian từ tháng Chín 1844 đến tháng Hai 1846.
Đây là thời kỳ hình thành thêm một bước thế giới quan duy vật cách mạng
của hai ông. Trong các tác phẩm viết vào thời kỳ này, hai ông đã đứng trên lập
trường chủ nghĩa duy vật chiến đấu, phê phán kịch liệt những quan điểm chủ
quan của phái Hê-ghen trẻ, cũng như triết học duy tâm của Hê-ghen. Hai ông
đánh giá đúng mức cái hợp lý trong phép biện chứng của Hê-ghen, song đã phê
phán mạnh mẽ khía cạnh thần bí của phép biện chứng này.
Hai ông đã đi tới một loạt nguyên lý hết sức quan trọng của chủ nghĩa duy
vật lịch sử như: vai trò quyết định của phương thức sản xuất trong sự phát triển
của xã hội, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản là xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra xã hội mới, xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Trong các tác phẩm viết vào thời kỳ này, hai nhà kinh điển
cũng đã đề ra một số nguyên lý của khoa kinh tế chính trị mác-xít.
Tập này được dịch dựa vào bản tiếng Nga bộ Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng-ghen,
tập 2, do Nhà xuất bản sách chính trị quốc gia Liên Xô xuất bản tại Mát-xcơ-va năm
1955. Ngoài phần chính văn, chúng tôi còn in kèm theo phần chú thích và
các bản chỉ dẫn do Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin Liên Xô
(trước đây) biên soạn để bạn đọc tham khảo.
Đồng thời với việc xuất bản bộ Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng-ghen,
chúng tôi sẽ tổ chức biên soạn sách giới thiệu nội dung mỗi tập và tư
tưởng cơ bản trong các tác phẩm chính của hai nhà kinh điển.
Tháng 4-1995
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
7 15
C.MÁC VÀ PH. ĂNG-GHEN
GIA ĐÌNH THẦN THÁNH HAY LÀ
PHÊ PHÁN SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN
Chống Bru-nô Bau-ơ và đồng bọn1
Do C.Mác và Ph. Ăng-ghen viết vào tháng
Chín - tháng Mười một 1844
In thành sách riêng vào năm 1845 tại Phranphuốc trên sông Mai-nơ
Ký tên: P h r i - đrí c h
Ă n g - g h e n v à C á c M á c
In theo bản in xuất bản năm
1845
Nguyên văn là tiếng Đức
8 17
9 19
LỜI TỰA
Ở Đức, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực không có kẻ thù nào nguy
hiểm hơn chủ nghĩa duy linh
tức chủ nghĩa duy tâm tư biện, là chủ
nghĩa đem thay thế con người cá thể hiện thực
bằng "tự ý thức" hoặc
"tinh thần" và cùng với nhà truyền đạo, nó giảng dạy rằng: "Tinh thần
đem lại sinh khí còn thể xác thì yếu đuối bất lực". Rõ ràng là cái tinh
thần không có thể xác đó chỉ có lực l
ượng tinh thần, lực l
ượng trí tuệ
trong óc tưởng t
ượng của nó thôi. Cái mà chúng tôi đấu tranh chống
lại trong sự phê phán của Bau
-
ơ chính là tư biện
tự tái sinh d
ưới hình
thức biếm hoạ. Theo chúng tôi, nó là biểu hiện hoàn chỉnh nhất của
nguyên tắc Cơ Đốc giáo Đức
định giãy giụa lần cuối cùng bằng cách
biến bản thân "sự phê phán" thành một lực l
ượng siêu nghiệm để tự
khẳng định mình. Bản trình bày của chúng tôi chủ yếu là nhằm vào "Allgemeine
Literatur
-Zeitung"
2
của Bru
-nô Bau
-
ơ mà chúng tôi đã có tám số
đầu, vì trong đó có sự phê phán của Bru
-nô Bau
-ơ và do đó mọi sự
bịa đặt ngu xuẩn của tư biện Đức nói chung
đã
đạt tới đỉnh cao nhất
của nó. Sự phê phán có tính phê phán (sự phê phán của "Literatur
-
Zeitung") càng dùng triết học để xuyên tạc hiện thực đến tức c
ười
như một vở đại hài kịch thì nó lại càng bổ ích cho chúng ta. Phau
-
sơ và Sê
-li
-ga là một ví dụ: "Literatur
-Zeitung" cung cấp cho chúng
tôi những tài liệu có thể dùng để giúp đông đảo bạn đọc quan niệm
được rõ rệt những ảo t
ư
ởng của triết học tư biện. Đấy cũng là mục
đích của tác phẩm của chúng tôi. Lẽ tất nhiên là phương pháp chúng tôi trình bày
đối t
ượng phải
14 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 7 15
phụ thuộc vào tính chất của bản thân đối tượng. Về mọi mặt, sự
phê phán có tính phê phán đều thấp hơn trình độ phát triển của lý
luận ở Đức. Vì vậy, tính chất của đối tượng nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy tại sao ở đây, chúng tôi không bàn nhiều thêm về sự
phát triển đó.
Hơn nữa: sự phê phán có tính phê phán buộc chúng tôi phải
dùng bản thân những thành quả hiện đã đạt được để đối chiếu
giản đơn với nó.
Vì vậy, theo chúng tôi, tác phẩm luận chiến này chỉ là lời mở
đầu cho những tác phẩm riêng trong đó chúng tôi sẽ trình bày -
dĩ nhiên là mỗi người sẽ trình bày riêng - quan điểm khẳng định
của chúng tôi và do đó lập trường khẳng định của chúng tôi đối
với các học thuyết triết học và xã hội hiện đại.
Pa-ri, tháng Chín 1844 Ăng-ghen - Mác
CHƯƠNG I
SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN
VỚI TƯ THẾ MỘT ANH THỢ ĐÓNG SÁCH,
HAY LÀ
SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN
THỂ HIỆN Ở ÔNG RAI-SƠ-HÁT
Sự phê phán có tính phê phán, tuy cho rằng mình vượt lên
trên quần chúng rất nhiều, nhưng vẫn vô cùng thương hại
quần chúng đó. Sự phê phán thương yêu quần chúng đến mức
đã sai con một của mình xuống trần gian để cho tất cả những
ai tin nó sẽ không chết đi mà được sống cuộc đời phê phán.
Bản thân sự phê phán đã trở thành quần chúng và sống giữa
chúng ta nên chúng ta thấy được cái vĩ đại của nó, giống như
cái vĩ đại của người con một của Đức chúa cha. Nói cách
khác, sự phê phán đã trở thành xã hội chủ nghĩa và bàn đến
những "luận văn về bần cùng hoá"3
. Nó không hề xét xem việc
tự so s ánh với thượng đế có chỗ nào phạm thượng không: nó
tự tha hoá và mang hình dạng của một anh thợ đóng sách và
tự hạ mình xuống trình độ ăn nói bậy bạ, hơn nữa ăn nói bậ y
bạ một cách phê phán bằng tiếng nước ngoài. Nó trong trắng
như trời xanh, như gái đồng trinh, hễ nhìn thầy quần chúng
mắc b ệnh hủi v à đầ y t ội lỗi l à rù ng mì nh kinh tởm, nhưng
nó đã tự ki ềm chế được nên đã nghiên cứu tác phẩm của
"Bô-dơ" 1 * và "tất cả nhữ ng t ài li ệu gốc về sự bần cùng hoá"
1* Bút danh của Sác-lơ Đích-ken-xơ "Boz" mà Rai-sơ-hát xuyên tạc đi.
16 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 8 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 17
và "theo dõi từng bước trong nhiều năm bệnh của thời đại".
Nó không thèm vi ết cho các chuyên gia học rộng, nó viết
cho công chúng rộng rãi, nó gạt bỏ hết những từ ngữ kỳ
quặc, mọi "từ la-tinh khó hiểu và tiếng lóng nhà nghề". Nó
phải quét sạch những cái đó trong các tác phẩm của người
khác, vì nếu hy vọng bản thân nó phải phục tùng "quy định
hành chính ấy" thì đó là một yêu cầu quá đáng. Nhưng nga y
cả về điểm nà y, nó vẫn còn làm một phần. Nó vứt bỏ một
cách dễ dàng kỳ lạ nếu không phải là bản thân những chữ ấy
thì cũng là nội dung của những chữ ấy. Như vậy, ai dám
trách nó dùng "hàng đống chữ nước ngoài khó hiểu" khi mà
bản thân nó xác nhận, bằng biểu hiện nhất quán của tính độc
đáo của nó, cái kết luận cho rằng những chữ đó cũng khó
hiểu đối với chính nó nữa?
Đây là mấy ví dụ về những biểu hiện nhất quán đó:
"Do đ ó nhữ ng t hể c hế củ a s ự k hốn c ùng" "là đ ối t ượng sợ hã i đối với
c hú ng".
"Một học t huyế t về ti nh t hầ n t rá c h nhi ệm t rong đó mỗi sự vậ n đ ộng c ủa t ư
t ưở ng l oài ng ười đ ều t rở t hà nh hình tượn g c ủa bà Lốt ".
"Đá xâ y cuố n t r ê n k hun g c ử a t ò vò c ủa cô ng t r ình n gh ệ thu ật t hực sự g ià u
l òng ti n đó".
"Đâ y l à nội dung c hủ yế u c ủa bả n di c húc c hí nh t rị c ủa St ai-nơ mà t ừ lâ u
t rước k hi t ừ c hức, nhâ n vậ t vĩ đại ấ y của nh à nước , đã gia o c ho c hí nh p hủ và
mọi t ác ph ẩm củ a nó ".
"Bấ y gi ờ d â n t ộc đó còn c hưa c ó sự đo l ườ ng nào c ho t ự d o rộng r ãi như
t hế ".
"Cuối bà i c hí nh l uậ n, ông ta l uậ n đà m khá vữ ng và ng r ằ ng c hỉ t hi ếu c ó sự
t í n nhi ệm t hôi ".
"Trí t uệ quốc gi a t ối ca o, xứng đ á ng v ới đ ấ ng na m nhi c h â n chí nh; trí t ụê
vượt l ê n t rê n nề nếp c ó sẵ n và sự s ợ hã i hè n nhát , t rí t uệ được gi á o dục t rong
l ị c h sử và bồi d ưỡng bằ ng t rự c quan si nh đ ộng c ủa si nh hoạ t c hí nh t rị c ủa cô ng
c hú ng nư ớc ngoà i ".
"Sự giá o d ục về phú c l ợi t oà n dâ n".
"Dưới sự gi á m s át của c ác nhà cầm q uyề n, t ự d o ngủ t riề n mi ê n t ro ng l òng sứ
mệ nh Ph ổ của c ác dâ n tộ c".
"Vă n c hí nh l uậ n h ữu cơ nh ân dân ".
"Nhâ n d ân mà t hậ m c hí ngà i B ruy-gơ-ma n c ấ p g iấ y ch ứn g nhậ n là đã chịu
l ễ r ử a tội và o tu ổi tha nh ni ê n".
"M â u t huẫ n k há ga y gắ t với nh ững t ính qu y định k hác trình bà y t rong t á c
phẩ m c huyê n nghi ê n c ứ u về sứ mệ nh ri ê ng biệt c ủa nhân d ân".
"Lò ng t ha m xấ u xa l à m t iê u ta n nha nh chó n g mọi ả o t ưởng của ý c hí d ân
tộ c ".
"Lò ng k ha o k há t l à m gi à u n hanh, v. v. , đó l à ti nh t hần quá n t riệt suốt t hời
kỳ P hục tí c h và c ũng là t i nh t hần l iê n mi nh với t hời đại mới bằ ng một sự b àng
qua n k há l ớn".
"Qua n ni ệ m mơ hồ về ý nghĩ a c hí nh t rị vốn c ó ở d ân t ộc nôn g n ghi ệp Ph ổ l à
dự a t rê n hồi ứ c về l ị ch s ử vĩ đai ".
" Ác cả m bi ế n đi và c huyể n t hà nh t r ạ ng t hái hư ng phấ n hoàn t oàn".
"Tr on g sự c huyể n bi ế n l ạ lù ng đó , mỗi người đ ề u vẫn đ ư a r a, t he o phư ơng
t hức của mì nh, một ng uy ện vọn g ri ê ng t ro ng vi ễ n c ản h c ủa mì nh".
"Một giá o lý t rì nh bà y t he o ngô n ngữ uyể n c huyể n c ủa Xa -lô -mô ng mà t i ế ng
nói như c hi m b ồ c â u - g u gù ! gu gù ! - đ a ng ê m á i ba y l ê n đế n lĩ nh vự c c ó sức
t ruyền cả m và bề ng oài r ền van g n hư sấ m" .
"Cả một sự h am mê ngh ệ th uật, ch ển h mản g ba mư ơi nhă m nă m".
"Nế u qua n ni ệ m của Be n-đ a về l uật lệ t hành phố nă m 180 8 k hô ng mắ c
khuyế t điể m l à l ồng t ư t ưởng Hồ i giá o v ào nh ữ ng kh ái niệm về bả n c hất và sự
t hực hi ệ n l uật l ệ t hà nh phố, t hì với ti nh t hầ n đi ề m đ ạ m vốn c ó ở đ ại bi ể u của
c hú ng t a, chú ng t a c ò n c ó t hể ti ế p t hu đ ược l ời tr ác h mắn g quá đi ế c t ai mà một
kẻ t hống t rị t hà nh phố t rước ki a đ ổ l ê n đ ầ u cô ng dâ n t hà nh phố".
Ở ngài Rai-xác-tơ, đâu đâu sự táo bạo của tiến trình suy
nghĩ cũng phù hợp với sự táo bạo về văn phong. Ông ta
chuyển tiếp như thế nà y:
"Ngài Bruy- gơ-man. .. và o năm 1843... h ọc t huyết về nhà nước... mỗi người
chí nh trự c... đức k hi ê m t ốn vĩ đại c ủa các nhà xã hội c hủ nghĩa chú ng ta.. . nhữ ng
phé p mầu tự nhi ên. .. nhữ ng yê u sác h cầ n đ ưa ra với nước Đứ c. .. nhữ ng phé p mầu
tự siêu tự nhiê n... A-bra-ha m.. . P hi-la-de n-phi- a... nước ca m l ộ. .. t hợ bá nh mì. ..
và bởi vì chú ng ta nói đến những phép mầu cho nên Na-pô-lê-ông đe m
vào". ..v. v..
Xem xong những thí dụ đó, chúng ta chẳng còn ngạc nhiên
18 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 9 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 19
thấy tại sao sự phê phán có tính phê phán lại còn "giải thích" cách
nói mà bản thân nó cho là "phương pháp biểu hiện phổ thông". Vì
nó "vũ trang cho đôi mắt của nó bằng một lực lượng hữu cơ có thể
nhìn xuyên suốt cả mớ hỗn loạn". Và ở đây cần nói rằng đã như
vậy thì ngay cả đến "phương pháp biểu hiện phổ thông" cũng
không còn có thể khó hiểu đối với sự phê phán có tính phê phán
nữa. Nó hiểu rằng con đường văn học tất nhiên phải khúc khuỷu
nếu người bước vào con đường đó không đủ sức nắn thẳng lại; cho
nên nó cũng gán một cách rất tự nhiên những "phép tính" cho nhà
văn.
Không cần nói ai cũng biết - và lịch sử chứng thực tất cả cái gì
không cần nói cũng đã rõ, cũng chứng thực điều này - sự phê phán
biến thành quần chúng không phải cốt để thành quần chúng, mà là
để tránh cho quần chúng khỏi tính quần chúng có tính quần chúng
của mình, nghĩa là để nâng phương pháp biểu hiện phổ thông của
quần chúng lên thành ngôn ngữ phê phán của sự phê phán có tính
phê phán. Khi sự phê phán nắm được ngôn ngữ thông thường của
quần chúng và cải tạo thứ tiếng nói thô tục đó thành những câu
cao siêu thần bí vốn có trong phép biện chứng của sự phê phán có
tính phê phán thì đó chính là sự phê phán đã tự hạ mình xuống
cùng cực rồi.
CHƯƠNG II
SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN
VỚI TƯ THẾ "MÜHLEIGNER"4
,
HAY LÀ
SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN
THỂ HIỆN Ở ÔNG I-U-LI- ÚT PHAU SƠ
Sau khi sự phê phán sa xuống chỗ nói nhăng nhít bằng tiếng
nước ngoài đã phục vụ đắc lực cho tự ý thức và đồng thời bằng
hành động đó đã giải phóng thế giới khỏi cảnh bần cùng thì trong
thực tiễn và lịch sử, sự phê phán cũng quyết tâm sa xuống chỗ nói
nhăng nhít. Nó thông hiểu "những vấn đề bức thiết trong sinh
hoạt nước Anh" và cung cấp cho chúng ta một bức phác hoạ thực
sự phê phán về lịch sử công nghiệp Anh" 5
.
Sự phê phán tự mãn tự túc, hoàn thiện hoàn mỹ trong bản thân
nó, dĩ nhiên không thể thừa nhận lịch sử đúng như lịch sử đã phát
triển trong thực tế, vì như vậy có khác gì thừa nhận quần chúng
hèn kém trong tính quần chúng có tính toàn bộ quần chúng mà thực
ra vấn đề ở đây chính là làm cho quần chúng mất tính quần
chúng ấy đi. Như vậy lịch sử được giải thoát khỏi tính quần
chúng của nó và sự phê phán được tự do xử lý đối tượng của
mình, thét bảo lịch sử rằng: "mi nên biết rằng mi phải diễn ra như
thế, như thế!". Mọi luật pháp của sự phê phán đều có lực lượng
đảo ngược: trước khi có những phán quyết của sự phê phán, lịch
sử đã diễn ra hoàn toàn khác với phán quyết của sự phê phán.
Cho nên lịch sử của quần chúng, tức cái gọi là lịch sử hiện thực,
20 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 10 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 21
khác xa với lịch sử của sự phê phán trình bày trong "LiteraturZeitung" số VII, kể từ trang 4.
Trong lịch sử của quần chúng, chưa có công xưởng thì chưa có
bất cứ thành phần công xưởng nào; nhưng trong lịch sử phê phán,
trong đó con sinh ra cha như trong triết học Hê-ghen trước kia thì
Man-se-xtơ, Bôn-tơn và Pre-xtơn đã là những thành phố công xưởng
phồn vinh khi chưa ai nghĩ đến công xưởng cả. Trong lịch sử hiện
thực, sự phát triển của công nghiệp dệt bông bắt đầu chủ yếu từ khi
máy kéo sợi gien-ny của Hác-gri-vơ và máy kéo sợi (chạy bằng sức
nước) của Ác-crai-tơ được dùng vào sản xuất, và máy mun của
Crôm-tơn thì chỉ là máy kéo sợi gien-ny được cải tiến thêm dựa vào
nguyên lý mới của Ác-crai-tơ mà thôi. Nhưng lịch sử phê phán lại
khéo phân biệt: nó khinh miệt tính phiến diện của máy kéo sợi gienny và máy kéo sợi chạy bằng sức nước và đề cao máy mun lên thành
sự đồng nhất tư biện của hai cực ấy. Thực ra với sự phát minh ra máy
kéo sợi chạy bằng sức nước và máy mun đã mở ngay ra khả năng ứng
dụng sức nước vào những máy móc đó; nhưng sự phê phán có tính phê
phán lại tách rời những nguyên tắc đã được bàn tay thô lỗ của lịch sử
trộn lẫn với nhau và quy sự ứng dụng đó vào thời đại muộn hơn coi
như một cái gì hoàn toàn đặc thù. Trên thực tế, sự phát minh ra máy
hơi nước đã có trước tất cả những phát minh vừa kể trên; nhưng ở sự
phê phán, máy hơi nước là đỉnh cao nhất của toàn bộ lâu đài, do đó
xét về thời gian, là một phát minh muộn về sau.
Trên thực tế, quan hệ buôn bán, theo ý nghĩa hiện đại, giữa Livớc-pun và Man-se-xtơ là kết quả của việc xuất khẩu hàng hoá của
nước Anh, nhưng trong sự phê phán, những quan hệ buôn bán đó đều
là nguyên nhân của xuất khẩu, và cả hai, quan hệ buôn bán và xuất
khẩu, đều là kết quả của vị trí gần nhau của hai thành phố ấy. Trong
thực tế, hầu hết mọi hàng hoá mà Man-se-xtơ gửi sang đại lục đều
qua Hun, nhưng trong sự phê phán lại qua Li-vớc-pun.
Trên thực tế, trong các công xưởng Anh có thang lương từ 1 silinh 1/2 đến 40 si-linh hoặc hơn nữa; nhưng trong sự phê phán thì
chỉ có một mức lương là 11 si-linh thôi. Trên thực tế, máy móc thay
thế lao động thủ công, nhưng trong sự phê phán máy móc lại thay
thế tư duy. Trên thực tế, công nhân ở Anh được phép liên hợp lại để
đòi tăng lương, nhưng trong sự phê phán thì họ lại bị cấm làm việc
đó vì quần chúng muốn làm việc gì cũng phải xin phép sự phê phán
trước đã. Trên thực tế, lao động công xưởng là hết sức mệt nhọc và
gây ra những bệnh đặc biệt (đã có những bộ sách y học chuyên
nghiên cứu những bệnh đó); nhưng trong sự phê phán "sự khẩn
trương quá mức không thể làm trở ngại lao động vì sức lực bỏ ra là
của máy móc". Trên thực tế, máy móc là máy móc; nhưng trong sự
phê phán máy móc lại có ý chí: máy móc không nghỉ ngơi nên công
nhân cũng không được nghỉ ngơi; như vậy là công nhân bị một ý chí
ngoại lai chi phối.
Nhưng tất cả cái đó đều chưa đáng kể. Sự phê phán không thoả
mãn với những chính đảng của quần chúng ở Anh; nó còn sáng tạo
ra những chính đảng mới; nó sáng lập ra "đảng công xưởng", bởi
vậy lịch sử phải cảm ơn nó. Song nó lại nhập cục chủ xưởng với
công nhân công xưởng thành một khối quần chúng - những chuyện
lặt vặt đó có gì đáng phải bận tâm! - và quả quyết rằng công nhân
công xưởng không quyên tiền vào quỹ của Đồng minh chống đạo
luật ngũ cốc6
, không phải như bọn chủ xưởng ngu ngốc tưởng, là do
ác ý hoặc do ủng hộ chủ nghĩa hiến chương mà chỉ là vì nghèo khổ.
Sau đó nó còn quả quyết rằng nếu người ta huỷ bỏ đạo luật ngũ cốc
của nước Anh thì công nhân nông nghiệp làm công nhật phải
chịu hạ tiền lương xuống, nhưng chúng tôi mạo muội chỉ ra
rằng giai cấp nghèo xác nghèo xơ đó không còn có thể chịu để
mất một xu nào nữa, nếu không họ sẽ chết đói. Nó quả quyết
rằng trong các công xưởng Anh, người ta làm việc mỗi ngà y
16 giờ, mặc dầu luật pháp nước Anh rất ngu xuẩn và không
có tinh thần phê phán đ ã quan tâm sa o cho ngà y làm không
22 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 11 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 23
vượt quá 12 giờ. Nó quả quyết rằng nước Anh vẫn phải là một
công xưởng lớn của toàn thế giới, mặc dầu đông đảo người Mỹ,
người Đức và người Bỉ không có tinh thần phê phán đã cướp đoạt
dần dần, bằng cạnh tranh, hết thị trường này đến thị trường khác
của người Anh. Sau hết, nó khẳng định rằng sự tập trung tài sản và
hậu quả của sự tập trung đó đối với các giai cấp cần lao thì ở Anh,
vô luận là người vô sản hay người hữu sản, đều không nhìn thấy,
song phái Hiến chương ngu xuẩn lại cho rằng họ đã hiểu hết sức rõ
ràng hiện tượng tập trung tài sản, và những người xã hội chủ nghĩa
thì nghĩ rằng từ lâu lắm rồi họ đã trình bày cặn kẽ tất cả những hậu
quả đó. Không phải chỉ có thế: ngay cả phái bảo thủ và phái tự do
như Các-lai-lơ, A-li-xơ và Ga-xken cũng đã chứng minh, bằng tác
phẩm của mình, rằng họ đã hiểu biết hiện tượng ấy.
Sự phê phán quả quyết rằng luật mười giờ của huân tước Ê-sli7
là
một biện pháp trung dung hời hợt và bản thân huân tước Ê-sli "là sự
phản ánh trung thành của hoạt động lập hiến", trong khi đó thì
hiện nay bọn chủ xưởng, phái Hiến chương, bọn chiếm hữu ruộng
đất, tóm lại cả cái nước Anh quần chúng vẫn coi biện pháp đó là
biểu hiện - đành rằng rất yếu ớt - của một nguyên tắc triệt để cấp
tiến vì nó phá vỡ nền móng của ngoại thương và do đó phá vỡ nền
móng của chế độ công xưởng, hay nói đúng hơn không những phá
vỡ mà còn đào tận gốc nền móng đó. Điểm này, sự phê phán có
tính phê phán biết rõ hơn ai hết. Nó biết rằng vấn đề ngày làm
việc 10 giờ đã được thảo luận trong một "tiểu ban" nào đó của Hạ
nghị viện, trong khi những báo không phê phán tìm cách làm cho
chúng ta tin rằng "tiểu ban" ấy là bản thân Hạ nghị viện, nghĩa là
"uỷ ban toàn viện"; nhưng dĩ nhiên là sự phê phán không thể xoá
bỏ cái tính kỳ quặc đó của hiến pháp Anh.
Sự phê phán có tính phê phán tự mình tạo ra cái đối lập với
mình tức sự ngu xuẩn của quần chúng, đồng thời cũng tạo ra sự
ngu xuẩn của ông Giêm-xơ Grê-hêm: bằng cách giải thích tiếng
Anh một cách phê phán, nó đã gắn cho ông bộ trưởng không phê
phán của Bộ nội vụ những điều mà ông ta chưa hề nói bao giờ, và
nó làm như thế chỉ cốt cho sự ngu xuẩn của Grê-hêm làm nổi bật
hơn sự thông minh của bản thân sự phê phán. Nếu nghe theo sự phê
phán thì Grê-hêm khẳng định rằng máy móc ở công xưởng có thể
dùng trong khoảng 12 năm bất kể là mỗi ngày máy móc đó làm việc
10 hoặc 12 giờ, thành thử luật 10 giờ làm cho nhà tư bản không thể
tái sản xuất ra được số tư bản đã bỏ vào những máy đó trong 12
năm làm việc của máy. Sự phê phán chứng tỏ rằng kết luận mà nó
gán cho ông Giêm-xơ Grê-hêm, là kết luận sai, vì một chiếc máy
làm việc mỗi ngày kém đi 1/6 thời gian thì dĩ nhiên có thể sử dụng
được lâu hơn.
Dù nhận định đó của sự phê phán có tính phê phán đối với kết
luận sai lầm của bản thân nó có chính xác thế nào đi nữa, chúng ta
cũng vẫn phải công bằng đối với ông Giêm-xơ Grê-hêm; thực ra
ông tuyên bố rằng: thực hiện luật ngày làm 10 giờ thì máy móc
phải tăng tốc độ của nó một cách tỷ lệ với sự rút ngắn thời gian
công tác của nó (đó là điều mà bản thân sự phê phán dẫn ra trong
trang 32, số VIII) và trong điều kiện này, thời gian hao mòn của
máy móc vẫn như cũ, nghĩa là 12 năm. Không thể không thừa nhận
điều đó, nhất là thừa nhận như vậy chỉ là tán dương và ca tụng "sự
phê phán" vì không phải ai khác mà chính sự phê phán không
những đã đưa ra kết luận sai lầm ấy, kết luận mà sau này chính nó
lại bác bỏ. Sự phê phán cũng tỏ ra hết sức rộng lượng đối với huân
tước Giôn Rớt-xen, người mà nó gán cho là có ý định sửa đổi hình
thức của chế độ nhà nước và chế độ bầu cử; do đó chúng ta phải rút
ra kết luận rằng hoặc là sự phê phán vốn đặc biệt ưa bịa ra những
điều ngu xuẩn, hoặc là tuần lễ vừa qua, bản thân huân tước Rớt-xen
đã biến thành một nhà phê phán có tính phê phán.
Nhưng sự phê phán chỉ trở thành thực sự tuyệt diệu trong việc
thêu dệt ra những điều ngu xuẩn khi nó phát hiện rằng công nhân