Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Toàn tập C.Mác và Ph. Ăng-Ghen -tập 11
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
C.MÁC
VÀ
PH.ĂNG-GHEN
TOÀN TẬP
11
NHÀ XUẤT BẢN C H Íp fT R I ÛUQC GIA
HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN TOÀN TẬP C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN
GS. Nguyễn Đức Bình Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng
GS. Đặng Xuân Kỳ Ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam,
Viện trưởng Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác -
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch
(thường trực) Hội đồng
GS. PTS. Trần Học Hiên Phó giám đốc Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, uỷ viên
PGS. Hà Học Hợi Phó trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam, uỷ viên
GS. PTS. Phạm Xuân Nam Phó giám đốc Trung tâm khoa học xã hội và
nhân văn quốc gia, uỷ viên
GS. Trần Nhâm Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, uỷ viên
GS. Trần Xuân Trường Trung tướng, Viện trưởng Học viện chính trị -
quân sự, uỷ viên
C.MÁC
VÀ
PH.ĂNG-GHEN
TOÀN TẬP
TẬP 11
(THÁNG GIÊNG 1855 - THÁNG TƯ 1856)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
SỰ THẬT
HÀ NỘI - 1993
6 LỜI NHÀ XUẤT BẢN 3 C.MÁC 7
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Tập 11 của bộ Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng-ghen bao gồm các tác phẩm của hai
nhà kinh điển viết trong thời gian từ tháng Giêng 1855 đến tháng Tư 1856. Trong
tập này, hai ông tiếp tục đi sâu phân tích và lý giải nguyên nhân của sự bùng nổ
và thực chất của cuộc Chiến tranh Crưm (lúc này đang đi vào giai đoạn kết thúc)
cũng như tác động của nó đối với thế giới. Vạch rõ tình trạng suy thoái về kinh
tế ở một số nước châu Âu, hai ông dự đoán nước Anh sẽ phải trải qua một cuộc
khủng hoảng kinh tế nặng nề nhất từ trước đến lúc đó và rất có khả năng là
khủng hoảng kinh tế sẽ xuất hiện ở nhiều nước; gắn liền với sự kiện này là
một cao trào mới của phong trào dân chủ và cách mạng ở châu Âu sẽ nổ ra. Hai
ông chỉ rõ: trong bối cảnh đó giai cấp vô sản các nước phải hành động để biến
cuộc Chiến tranh Crưm thành cuộc chiến tranh để cải tạo châu Âu, giải phóng các
dân tộc bị áp bức, thống nhất nước Đức và nước I-ta-li-a theo con đường dân
chủ và cách mạng.
Tập này được dịch dựa vào bản tiếng Nga bộ Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng-ghen,
tập 11 do Nhà xuất bản sách chính trị quốc gia Liên Xô xuất bản tại Mát-xcơ-va
năm 1958. Ngoài phần chính văn, chúng tôi còn in kèm theo phần chú thích và các
bản chỉ dẫn do Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê-nin Liên Xô (trước đây) biên
soạn để bạn đọc tham khảo.
Đồng thời với việc xuất bản bộ Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng-ghen, chúng tôi sẽ
8 LỜI NHÀ XUẤT BẢN 4 C.MÁC 9
tổ chức biên soạn sách giới thiệu nội dung mỗi tập và các tư tưởng cơ bản
trong tác phẩm chính của hai nhà kinh điển.
Tháng 8 - 1993
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
KHAI MẠC KỲ HỌP NGHỊ VIỆN1
Luân Đôn, ngày 24 tháng Giêng. Hôm qua kỳ họp của nghị viện
lại tiếp tục2
. Ở thượng nghị viện, bá tước Ê-len-bô-rô đã tuyên bố
rằng thứ năm, tức là ngày 1 tháng Hai, ông ta sẽ đề nghị cho
nghị viện biết số liệu chính thức về số quân đã được đưa sang
Crưm, - bộ binh, kỵ binh và lính thủy, - cũng như về số tử vong,
thương vong, ốm yếu và nói chung là số người bị loại khỏi vòng
chiến đấu. Công tước Rít-sơ-mơn đã chất vấn bộ trưởng chiến
tranh rằng tại sao khi tặng huy chương người ta lại bỏ qua những
người tham gia chiến đấu ở Ba-la-cla-va3
. Không chỉ những người
tham gia chiến đấu ở Ba-la-cla-va, mà nói chung tất cả những lính
thủy có mặt ở Hắc Hải, thậm chí cả những người không tham gia
chiến trận, cũng đều phải được tặng huy chương, - công tước
Niu-ca-lơ, bộ trưởng chiến tranh đã đập lại công tước Rít-sơ-mơn
như vậy. Để phản đối ý kiến này, công tước Rít-sơ-mơn cùng với
bá tước Ê-len-bô-rô và Hác-uých đã sử dụng luận điểm xưa kia
của A-đam Xmít nói rằng giá trị của "xa xỉ phẩm", và do đó cả giá
trị của những chiếc huy chương nữa, tỉ lệ nghịch với số lượng
của chúng. Sau một cuộc tranh luận hết sức nghiêm túc, kéo dài
gần nửa giờ, các nghị sĩ đã giải tán.
Phòng họp ở hạ nghị viện cũng chật ních người. Nhưng hy vọng
của những người đến họp đã không trở thành hiện thực.
Đi-xra-e-li vắng mặt và ngài Ben-gia-min Hôn đã phát biểu. Phiên
họp khai mạc vào hồi bốn giờ kém mười lăm phút và trước sáu
10 C.MÁC 5 KHAI MẠC KỲ HỌP NGHỊ VIỆN 11
giờ đã kết thúc. Người ta ngạc nhiên về thái độ hết sức bình
thản của viện nguyên lão La Mã khi họ nhận được tin bại trận ở
Can-nơ4
. Nhưng giờ đây các commoners 1* Anh còn hơn hẳn các
patres conscripti2* La Mã. Nhìn vào nét mặt họ ta không thể tin
được rằng quân đội Anh đang chết ở Crưm. Có lẽ tình trạng vệ
sinh phòng bệnh của quân đội Anh ở Crưm đã thúc đẩy ngài
Ben-gia-min Hôn đưa ra hai dự luật cải tiến tổ chức cảnh sát vệ
sinh ở Anh. Ngài Ben-gia-min Hôn là một trong số những người
được gọi là phái cấp tiến kiểu Uy-li-am Môn-xơ-uốt, Ô-xboóc-nơ
và phe cánh. Chủ nghĩa cấp tiến của các vị này thể hiện ở chỗ
họ đòi cho mình các chức vị trong nội các, mặc dù họ không thuộc
tầng lớp đầu sỏ và không có tài năng của giới bình dân. Nhưng
chỉ riêng việc họ ở trong nội các thôi, cũng đã là một sự kiện cấp
tiến rồi. Bạn bè của họ nói như vậy. Vì thế mùa hè năm 1854,
khi bệnh dịch tả bắt đầu hoành hành dữ dội ở nước Anh và "Hội
đồng bảo vệ sức khoẻ", trước đó nằm dưới sự kiểm soát của
Pan-mớc-xtơn, bộ trưởng nội vụ, cũng tỏ ra bất lực như tổ chức
chăm lo y tế ở doanh trại Xê-va-xtô-pôn, thì liên minh cho rằng
đó là thời cơ thích hợp để đặt ra một chức vụ mới trong nội các -
chức vụ độc lập của vị chủ tịch Hội đồng bảo vệ sức khoẻ - và
tăng cường địa vị của mình bằng cách lôi kéo ngài Ben-gia-min
Hôn "cấp tiến". Như vậy là ngài Ben-gia-min Hôn đã trở thành vị
bộ trưởng y tế. Thật ra, bệnh dịch tả không biến khỏi Luân Đôn
sau khi tờ "Gazette" thông báo việc bổ nhiệm ông ta, nhưng ông
Tay-lo nào đó đã biến mất khỏi những trang tạp chí "Punch"5
, trong
đó ông ta đã châm biếm khối liên minh và Nga hoàng. Ngài
Ben-gia-min Hôn đã bổ nhiệm ông ta giữ chức thư ký Hội đồng
bảo vệ sức khoẻ với số lương là 1 000 pao xtéc-linh. Là một phần
tử cấp tiến, ngài Ben-gia-min Hôn ưa thích phương pháp điều trị
cấp tiến. Chúng ta sẽ còn đủ thời giờ bàn đến ưu điểm những
dự luật của ông ta khi chúng được đưa ra. Còn hôm qua thì chúng
chỉ đem lại cho ông ta cái cớ cho sự entrée3*
của ông ta vào hạ
nghị viện trong cương vị bộ trưởng.
1*
- các nghị sĩ hạ nghị viện
2*
- các thành viên viện nguyên lão
3*
- tham gia
Về lời chất vấn của Lây-ác,
"liệu nội các có đ ồng ý đệ trì nh lê n nghị việ n nhữ ng vă n bả n tra o đ ổi với các
cường quốc nước ngoài về hiệp ước ngà y 2 t há ng Chạ p 1854 và đặc biệt l à nhữ ng
văn ki ện nà o ma ng nội d ung gi ải thíc h bốn điể m mà phía Anh - P háp đã t ra o c ho
Chính phủ Nga k hô ng phải để đà m phá n, mà l à để c hấ p nhậ n, ha y k hô ng"
thì ngài Huân tước Giôn Rớt-xen đã trả lời rằng ông ta không
biết liệu có thể đệ trình được một văn kiện nào trong số những
văn kiện đang bị chất vấn hay không. Điều đó không hợp với
thông lệ của nghị viện. Còn về chuyện bốn điểm6
thì ông ta có
thể thông báo về đại thể cho người bạn đáng kính của mình như
sau: cuối tháng Mười một, thông qua Goóc-tra-cốp, nước Nga đã
thông báo rằng họ chấp nhận cái gọi là bốn điểm; tiếp đó là hiệp
ước ngày 2 tháng Chạp7
; rồi sau đó ngày 28 tháng Chạp tại Viên
đã có cuộc gặp giữa Goóc-tra-cốp với các đại sứ Anh, Pháp và Áo.
Nhân danh các nước đồng minh, đại sứ Pháp đọc văn kiện giải
thích bốn điểm ấy. Chính bản giải thích này phải được xem là cơ
sở cho cuộc đàm phán. Điểm thứ ba đề nghị chấm dứt ưu thế
của Nga ở Hắc Hải. Goóc-tra-cốp không đồng ý với cách giải thích
ấy, nhưng lại tuyên bố rằng ông ta có ý định xin chỉ thị của chính
phủ mình. Mười ngày sau, Goóc-tra-cốp thông báo cho bá tước
Bu-ôn rằng ông ta đã nhận được những chỉ thị ấy. Ngày 7 hay 8
tháng Giêng lại có cuộc gặp gỡ mới tại văn phòng bộ trưởng ngoại
giao Áo. Goóc-tra-cốp đọc bản bị vong lục trình bày quan điểm của
chính phủ ông ta. Bá tước Bu-ôn, huân tước Oét-xmô-len và nam
tước Buốc-kê-nê tuyên bố rằng họ không được uỷ quyền chấp
nhận bản bị vong lục. Điểm xuất phát của cuộc đàm phán phải là
sự tán thành cách giải thích đã nêu về bốn điểm. Bấy giờ
Goóc-tra-cốp rút lại bản bị vong lục của mình và chấp nhận bản
giải thích bốn điểm là cơ sở đàm phán. Nước Nga, Rớt-xen nói
thêm, mặc dù thừa nhận "cơ sở" này, song vẫn giữ quyền bác bỏ
"từng điểm" của cơ sở đó sau khi nó được soạn thảo một cách
chính xác (hiện nay nó chỉ mang tính chất sơ thảo mà thôi). Chính
phủ Anh tuyên bố sẵn sàng đàm phán trên cơ sở nói trên, "nhưng
cho đến nay Chính phủ đó vẫn chưa trao cho đại sứ của mình toàn
quyền thương lượng". Câu cuối này cũng chính là tin tức duy nhất
mà Rớt-xen thông báo với "commoners".
12 C.MÁC 6 KHAI MẠC KỲ HỌP NGHỊ VIỆN 13
Sự kiện quan trọng nhất của phiên họp là lời tuyên bố của
Rô-bác:
"t hứ nă m t uầ n sa u ông t a sẽ đề nghị t h ành l ậ p một uỷ ba n đặc biệt để xác
đị nh số l ượng và t ì m hi ể u t ì nh hì nh quâ n đ ội ở Xê -va -xt ô -pôn c ũng như đ ể đi ề u
t ra về hoạ t động c ủa nhữ ng c ơ qua n c hí nh phủ c ó t rác h nhiệm t hoả mã n cá c nhu
c ầ u c ủa quân đ ội ".
Tờ "Times"8
"cầu khẩn" Rô-bác "gào thét thật to và không chiếu
cố cái gì cả". Cả lời khẩn cầu của "Times" lẫn quá khứ của ngài
Rô-bác khiến người ta nghĩ rằng ông ta sẽ gào lên, hay nói cho
đúng hơn, sẽ kêu lên oang oác để không cho người khác phát biểu.
Như chúng ta biết, Uy-li-xơ không bao giờ lợi dụng Téc-xi-tơ, nhưng
các thành viên đảng Vích vốn láu cá chả kém gì Uy-li-xơ theo kiểu
của họ, thì sẽ lợi dụng Rô-bác.
Do C.Mác viết ngày 24 tháng Giêng 1855
Đã đăng trên tờ "Neue Oder-Zeitung" số
45, ngày 27 tháng Giêng 1855
In theo bản đăng trên báo
Nguyên văn là tiếng Đức
C.MÁC
VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG NỘI CÁC
Luân Đôn, ngày 26 tháng Giêng. Khi người đưa thư hoả tốc của
quốc vương Men-lích-sắc đến A-la-mút và đòi Hát-xan-ben-Xa-bắc
phải đầu hàng, thì "ông già của núi rừng" thay vì đưa ra câu trả
lời, đã ra lệnh cho một trong những phê-đa-i
9
của mình phải tự
sát. Chàng trai lập tức đâm con dao nhọn vào ngực mình và gục
xuống tắt thở trên thềm đá. "Ông già"1* trong liên minh cũng đòi
huân tước Giôn Rớt-xen phải xả thân vì mình, phải tự sát ở hạ
nghị viện. Song Rớt-xen, vị chí nhân lão thành ấy trong nghị viện,
vốn hiểu điều răn "thương người như thể thương thân" bao giờ
cũng là "thương lấy thân" lại muốn giết chính "ông già". Chúng ta
không hiểu nhầm Rô-bác. Thông đồng với Rớt-xen, Rô-bác đưa ra
đề nghị để phòng khi liên minh tan vỡ thì cứu lấy "bộ phận ưu
tú" của nó - tức đảng Vích.
Quả là như vậy đấy ! Đề nghị của Rô-bác không nhằm chống
lại toàn bộ nội các mà nhằm chống lại "những cơ quan" trực tiếp
được trao quyền tiến hành chiến tranh, tức là chống lại phái
Pin10. Ngoài ra, rõ ràng là khi khai mạc kỳ họp nghị viện, hoàn
toàn không phải ngẫu nhiên mà Rớt-xen lại tuyên bố rằng cơ sở
để đàm phán tuyệt nhiên chưa là cơ sở, chừng nào nước Nga còn
dành cho mình quyền bác bỏ từng điểm trong bốn điểm, rằng đàm
phán thực chất chưa phải là đàm phán, một khi nội các nước Anh
1*
- A-bớc-đin
14 C.MÁC 7 VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG NỘI CÁC 15
chưa trao toàn quyền cho ai đàm phán. Rô-bác vừa mới đưa ra đề
nghị của mình, - đó là vào ngày thứ ba, - thì ngay chiều hôm đó
Rớt-xen liền viết cho "ông già" rằng mục đích của đề nghị đó là
tỏ ra không tín nhiệm cơ quan quân sự (phái Pin), bởi vậy ông ta
buộc phải đệ đơn từ chức. A-bớc-đin đến Lâu đài Uyn-đơ yết
kiến nữ hoàng và khuyên nữ hoàng nên chấp thuận đơn từ chức
đó, và việc đó đã được thực hiện. Lòng dũng cảm của "ông già"
thật dễ hiểu vì người ta biết là Pan-mớc-xtơn không đệ đơn từ
chức.
Hạ nghị viện biết tất cả những sự kiện trọng yếu này vào
phiên họp hôm thứ năm. Hạ nghị viện hoãn họp, còn Rô-bác thì
hoãn đến tối hôm nay mới đưa kiến nghị. Tất cả các nghị sĩ hạ
nghị viện đều lao tới thượng nghị viện để chờ A-bớc-đin giải
thích. Song A-bớc-đin khá là giảo hoạt: lại lấy cớ đi Uyn-đơ, để
không dự phiên họp, và công tước Niu-ca-lơ đã nhắc lại ở thượng
nghị viện những chuyện đơm đặt mà Pan-mớc-xtơn đã nói ở hạ
nghị viện. Lúc đó, phái Vích, các nghị sĩ hạ nghị viện, rất lo sợ
khi biết tại thượng nghị viện kế hoạch của họ đã bị bại lộ và con
đường rút lui đã bị cắt. Đảng To-ri hoàn toàn không muốn làm
thiệt phái Pin qua việc lại bảo đảm cho đảng Vích cái đặc quyền
cũ của họ là "được Thượng đế trao truyền thu tô đế chế Anh".
Họ thúc huân tước Linh-huê-xtơ đưa ra ý kiến khác với ý kiến
của Rô-bác, không nhằm phản đối bộ này bộ kia, mà nhằm chống
lại toàn thể chính phủ, và cũng không chỉ có lên án - à la Rô-bácmà còn trực tiếp buộc tội chính phủ. Nguyên văn lời tuyên bố của
Linh-huê-xtơ như sau:
"Thứ sá u, ngà y 2 tháng Hai tôi sẽ nêu ý ki ến rằng theo ý kiến của nghị viện
nà y, cuộc vi ễ n chi nh sa ng Crư m đã được các bộ t rưởng c ủa hoà ng t hượng tiến
hà nh với phư ơng tiện c ực k ỳ t hiế u thốn, t hiế u sự thậ n trọng thích đá ng và k hô ng
n ghi ê n c ứ u đầ y đ ủ vấ n đề về t í n h c hấ t v à sức c h ốn g t rả c ó t hể c ó c ủa đ ối
p hư ơng, và nói rõ rằ ng t hái độ chể nh mả ng và bất tài của chí nh phủ trong việc
chỉ đạ o chiế n dịch đã dẫ n đế n những hậ u quả hết sức tai hại ".
Không nghi ngờ gì hết, ý kiến của Linh-huê-xtơ cũng nhằm
chống lại đảng Vích y như ý kiến của Rô-bác nhằm chống lại
những kẻ ủng hộ A-bớc-đin. Nhân đây chúng tôi xin nêu: huân
tước Giôn Rớt-xen, thông qua Hai-tơ, đã thông báo cho hạ nghị
viện biết là hễ có dịp, - nghĩa là tối hôm nay, - ông ta sẽ giải thích
nguyên nhân từ chức của mình. "Ai chẳng chờ đợi gì, thì sẽ không
bị đánh lừa"11
.
Do C.Mác viết ngày 26 tháng Giêng
1855 Đã đăng trên tờ "Neue OderZeitung" số 47, ngày 29 tháng Giêng
1855
In theo bản đăng trên báo
Nguyên văn là tiếng Đức
16 C.MÁC 8 CÔNG VIỆC CỦA NGHỊ VIỆN 17
C.MÁC
CÔNG VIỆC CỦA NGHỊ VIỆN
Luân Đôn, ngày 27 tháng Giêng. Nét mặt và giọng nói trong
phiên họp hôm qua của hạ nghị viện đã cho phép hình dung rõ nghị viện
Anh hiện nay đã đớn hèn đến mức nào.
Trước khi bắt đầu phiên họp, vào khoảng 4 giờ chiều, phòng
họp đầy người vì người ta chờ đợi một vụ om sòm: huân tước
Rớt-xen giải thích nguyên nhân từ chức của ông ta. Nhưng cuộc
tranh luận có tính chất cá nhân vừa kết thúc và cuộc tranh luận
về thực chất của vấn đề - về đề nghị của Rô-bác - vừa bắt đầu
thì các nhà ái quốc phẫn uất vội vã đi dùng bữa trưa; phòng họp
vắng tanh, đâu đó nổi lên tiếng hò hét: "biểu quyết, biểu quyết!"
Bắt đầu một sự tạm ngừng khó chịu kéo dài mãi cho đến khi
quốc vụ khanh phụ trách các vấn đề quân sự Xít-ni Héc-bớc đứng
lên và đọc một bản báo cáo dài dòng và tỉ mỉ trước các hàng ghế
nghị sĩ trống không. Sau đó các nghị sĩ đã chén no lần lượt chậm
rãi trở về chỗ ngồi của mình. Khi Lây-ác bắt đầu đọc tham luận,
vào khoảng 9 giờ rưỡi tối, có chừng 150 nghị sĩ dự họp; nhưng
khi ông ta kết thúc bản tham luận vào khoảng một giờ trước khi
bế mạc phiên họp thì phòng họp lại đầy người. Nhưng phần cuối
của phiên họp lại rất giống giờ nghỉ trưa của nghị viện.
Huân tước Giôn Rớt-xen, người mà toàn bộ ưu điểm quy lại
chỉ là duy trì nếp cũ trong sách lược nghị viện, đã đọc bài diễn
văn của mình không phải ở bàn di ễn giả như thường lệ trong
những trường hợp như thế mà ở hàng ghế thứ ba, nơi các đảng
viên đảng Vích bất mãn ngồi, phía sau các ghế bộ trưởng. Ông ta
nói giọng khe khẽ, khàn khàn, kéo dài các từ, phát âm tiếng Anh
rất tồi như thường lệ và thường là đại lủng củng về phép tắc
đặt câu. (Nhân tiện xin nói thêm: trong bất kể trường hợp nào
cũng không nên lẫn lộn diễn văn dưới dạng đăng báo với phát
biểu mồm). Các diễn giả bình thường thì hay che đậy nội dung
tồi dưới hình thức trình bày hay ho, còn Rớt-xen thì lại cố biện
hộ cho cái nội dung tồi bằng lời trình bày vụng về. Cứ như là
ông ta dùng cách nói của mình để xin thứ lỗi cho điều mà ông ta
nói.
Quả có điều cần xin tha thứ thực đấy ! Thứ hai trước, ông
ta còn chưa nghĩ đến việc từ chức, nhưng đến thứ ba, Rô-bác
vừa nêu đề nghị của mình thì ông ta đã thấy đó là điều không
tránh khỏi. Việc này làm cho người ta nghĩ đến tên đầy tớ không
hề phản đối sự dối trá, nhưng khi điều nói dối ấy bị vạch trần
thì lương tâm hắn mới thức tỉnh. Căn cứ vào đâu mà ông ta có
thể phản đối kiến nghị nghị viện tiến hành cuộc điều tra, như
chức trách người lãnh đạo hạ nghị viện buộc ông ta phải làm.
Phải chăng là do tai hoạ chưa lớn đến mức phải điều tra? Nhưng
ai dám phủ nhận tình cảnh bi đát của quân đội ở Xê-va-xtô-pôn?
Tình cảnh đó không chỉ đau khổ, mà là khủng khiếp không thể chịu
đựng nổi. Hoặc giả ông ta phải đoan chắc với nghị viện rằng uỷ
ban điều tra của nghị viện là vô dụng, vì những biện pháp hay ho
nhất để chống tai hoạ ấy đã được thi thố cả rồi? Ở đây, Rớt-xen
vấp phải một vấn đề khó xử, vì rằng không những với tư cách
thành viên của nội các, mà còn với tư cách chủ tịch Privy Council1*
,
ông ta trực tiếp chịu trách nhiệm về việc áp dụng những biện
pháp ấy. Rớt-xen thừa nhận rằng ông ta đã đồng ý bổ nhiệm
công tước Niu-ca-lơ làm bộ trưởng chiến tranh "chính". Ông ta
không thể phủ nhận rằng những biện pháp nhằm cung cấp lương
thực, quân trang cho quân đội và phục vụ y tế ít ra phải được
tiến hành vào tháng Tám và tháng Chín. Rớt-xen đã làm gì trong
thời kỳ hết sức nguy cấp ấy, theo như lời ông ta thừa nhận?
1*
- Hội đồng cơ mật
18 C.MÁC 9 CÔNG VIỆC CỦA NGHỊ VIỆN 19
Ông ta đã ngao du khắp nước, đọc những bài diễn văn nhỏ tại
"literary institutions"1* và lo việc xuất bản tập thư từ của Sác-lơ,
Giêm-xơ Phốc-xơ12. Trong khi ông ta ngao du ở Anh thì A-bớc-đin
đi ngao du ở Xcốt-len, và từ tháng Tám đến 17 tháng Mười nội
các không họp một lần nào cả. Theo chính lời huân tước Giôn,
trong phiên họp này của nội các ông ta không hề đưa ra được một
cái gì khả dĩ thu hút sự chú ý của nghị viện. Sau đó, huân tước
Giôn lại nghiền ngẫm suốt cả một tháng trời, và rút cục, ngày 27
tháng Mười một gửi cho A-bớc-đin một bức thư đề nghị hợp
nhất chức bộ trưởng chiến tranh với chức vụ secretary at war 2*
và trao hai chức vụ ấy cho huân tước Pan-mớc-xtơn, nói cách
khác, cách chức của công tước Niu-ca-lơ. A-bớc-đin đã bác bỏ đề
nghị ấy. Ngày 28 tháng Mười một, Rớt-xen lại viết thư cho
A-bớc-đin cũng theo tinh thần ấy. Ngày 30 tháng Mười một,
A-bớc-đin có đầy đủ lý do để trả lời Rớt-xen rằng toàn bộ đề
nghị của Rớt-xen chỉ nhằm thay thế người này bằng người khác
- thay công tước Niu-ca-lơ bằng Pan-mớc-xtơn. Thực ra, khi tách
bộ thuộc địa khỏi bộ chiến tranh, Rớt-xen vui lòng đề nghị trao
bộ chiến tranh cho công tước Niu-ca-lơ, để đặt một trong những
đảng viên đảng Vích của ông ta là ngài Gioóc-giơ Grây vào bộ thuộc
địa. Sau đó A-bớc-đin hỏi riêng Rớt-xen xem ông ta có định đưa
đề nghị của mình ra trước nội các không. Rớt-xen từ chối để
như ông ta nói, "không phá vỡ nội các". Như vậy là, trước hết là
nội các, rồi sau mới đến quân đội ở Crưm.
Rớt-xen thừa nhận rằng không một biện pháp nào được tiến
hành, để loại trừ tai hoạ. Toàn bộ cuộc cải cách của ngành quân
sự chỉ gói gọn trong việc làm cho ngành quân nhu phụ thuộc vào
bộ chiến tranh. Thế nhưng mặc dù không một biện pháp nào được
tiến hành để cải thiện tình hình, Rớt-xen vẫn yên trí ở lại nội các
và từ ngày 30 tháng Mười một 1854 đến ngày 20 tháng Giêng 1855
ông ta cũng không đưa ra thêm đề nghị nào. Vào hôm ấy, tức là
vào thứ bảy trước, A-bớc-đin đã trao cho Rớt-xen một số đề nghị
về cải cách ngành quân sự, nhưng Rớt-xen thấy rằng những đề
1*
- "các hội văn học"
2*
- bộ trưởng phụ trách các vấn đề quân sự
nghị ấy không đầy đủ, và về phía mình đã đưa ra các đề nghị
hưởng ứng dưới hình thức văn bản. Chỉ ba ngày sau, ông ta lại
thấy cần phải đệ đơn từ chức, vì Rô-bác đã ra tuyên bố mà
Rớt-xen thì không có ý định chia phần trách nhiệm với cái nội
các trong đó ông ta đã từng giữ các chức vụ và đã trực tiếp tham
gia vào công việc của nó. Rớt-xen giải thích rằng ông ta nghe nói
không đời nào A-bớc-đin lại dám bổ nhiệm Pan-mớc-xtơn làm nhân
vật cai quản bộ chiến tranh, mà nếu vậy thì nhân vật Cuốc-ti-u-xơ
ấy chỉ có thể tự chúc mừng rằng đã không uổng công rời bỏ nội
các và lao vào vực thẳm của phe đối lập. Như thế là, ngày càng
lăn xuống dốc, huân tước Giôn của chúng ta đã xoá bỏ nốt cái cớ
cuối cùng mà ông ta có thể viện ra để thanh minh cho việc mình
từ chức, khi nói rằng: 1) triển vọng của chiến tranh tuyệt nhiên
không đến nỗi khiến cho người ta rơi vào tâm trạng tuyệt vọng
đang ngự trị; 2)A-bớc-đin là vị thủ tướng vĩ đại, Cla-ren-đôn là
nhà ngoại giao vĩ đại, Glát-xtôn là nhà tài chính vĩ đại; 3) đảng
Vích không phải gồm những kẻ mưu cầu danh lợi, mà là gồm
những nhà yêu nước mơ mộng, và sau hết, ông ta, Rớt-xen sẽ bỏ
phiếu trắng khi biểu quyết về đề nghị của Rô-bác, mặc dầu ông
ta rời nội các dường như là vì một nhà yêu nước chẳng thể nào
phản đối được đề nghị ấy. Bài diễn văn của Rớt-xen đã được
tiếp đón lạnh nhạt hơn cả giọng người đọc bài diễn văn đó.
Pan-mớc-xtơn thay mặt nội các phát biểu. Tình cảnh của ông ta
thật nực cười. Cuốc-ti-u-xơ - Rớt-xen từ chức vì A-bớc-đin không
muốn bổ nhiệm Pan-mớc-xtơn làm nhân vật cai quản bộ chiến
tranh. Bru-tút - Pan-mớc-xtơn công kích Rớt-xen vì ông này rời bỏ
A-bớc-đin vào giờ phút hiểm nghèo. Lâm vào tình cảnh nực cười
này, Pan-mớc-xtơn cảm thấy rất dễ chịu. Ông ta lợi dụng nó để
gây cười, biến tình thế nghiêm trọng thành một trò hề, như ông
ta thường làm trong giờ phút gay go. Khi Pan-mớc-xtơn chỉ trích
Rớt-xen vì Rớt-xen không ra quyết định dũng cảm của mình ngay
từ tháng Chạp, thì Đi-xra-e-li ra ông ta cũng không giấu giếm nỗi
vui sướng của mình về sự phá sản của hiến pháp Vơ-ni-dơ - đã
phá ra cười còn Glát-xtôn vốn chuyên làm ra vẻ nghiêm túc, hẳn
đã nhẩm toàn bộ bài kinh cầu nguyện của giáo phái Pi-u-di13 để
khỏi bật ra tiếng cười, Pan-mớc-xtơn tuyên bố rằng chấp nhận
20 C.MÁC 10 CÔNG VIỆC CỦA NGHỊ VIỆN 21
đề nghị của Rô-bác có nghĩa là nội các sụp đổ. Nếu đề nghị ấy
bị bác bỏ thì nội các sẽ thảo luận vấn đề tự cải tổ (kể cả vấn đề
quyền độc tài của Pan-mớc-xtơn).
Vị Pan-mớc-xtơn này quả là một nhà ảo thuật vĩ đại! Một
chân đã đứng trong mồ mà ông ta vẫn biết cách làm cho nước
Anh tin rằng ông ta là homo novus 1* và con đường công danh
của ông ta mới chỉ bắt đầu! Giữ chức quốc vụ khanh phụ trách
các vấn đề quân sự trong 20 năm trời và nổi tiếng với chức vụ
ấy chỉ vì đã bảo vệ một cách có hệ thống hình phạt bằng nhục
hình và việc bán quân hàm trong quân đội14, giờ đây ông ta dám
mạo xưng là người mà chỉ riêng tên tuổi thôi cũng đủ để có thể
khắc phục được những thiếu sót của cả chế độ! Là người duy
nhất trong các bộ trưởng Anh đã nhiều lần, đặc biệt nghiêm
trọng là năm 1848, bị vạch mặt ở nghị viện là tay sai của Nga,
ông ta vẫn dám mạo xưng là người duy nhất có thể đưa nước
Anh vào cuộc chiến tranh với nước Nga. Vị Pan-mớc-xtơn này
quả là một nhân vật vĩ đại!
Do những đề nghị của Rô-bác đã được chuyển sang phiên họp
tối thứ hai, nên để đến lần sau sẽ tranh luận. Đề nghị đó được
xây dựng khôn khéo đến nỗi những địch thủ của nội các đã tuyên
bố rằng họ sẽ bỏ phiếu tán thành đề nghị đó, tuy họ thấy nó phi
lý, còn những người ủng hộ nội các thì dự định tán thành nó, tuy
họ sẽ bỏ phiếu chống. Phiên họp của thượng nghị viện chẳng có
gì đặc biệt lý thú. Đối với lời tuyên bố của Rớt-xen, A-bớc-đin
không bổ sung gì cả, ngoài sự kinh ngạc của ông ta: Rớt-xen đã
làm cho toàn thể nội các kinh ngạc.
Do C.Mác viết ngày 27 tháng Giêng 1855
Đã đăng trên tờ "Neue Oder-Zeitung"
số 49, ngày 30 tháng Giêng 1855
In theo bản đăng trên báo
Nguyên văn là tiếng Đức
1*
- con người mới
PH.ĂNG-GHEN
CHIẾN TRANH Ở CHÂU ÂU15
Càng gần ngày khai mạc hội nghị mới ở Viên16 thì hy vọng về
những sự nhượng bộ nào đó của nước Nga càng trở nên hão huyền
và cực kỳ bấp bênh. Thắng lợi huy hoàng của coup1*
ngoại giao
xuất sắc của Nga hoàng, sự đồng ý nhanh chóng của Nga hoàng về
cơ sở đàm phán được đưa ra, làm cho ông ta, ít ra là trong thời
gian trước mắt, ở vào địa vị rất có lợi. Chính vì vậy có thể quả
quyết rằng dù bề ngoài Nga hoàng tỏ ra đồng ý các đề nghị hoà
bình như thế nào đi nữa thì cơ sở thực tế duy nhất mà hiện giờ ông
ta tán thành dựa vào đó để dàn xếp cuộc xung đột thực ra vẫn là
duy trì status quo2*. Bằng việc chấp nhận bốn điểm17 Nga hoàng
lại đặt Áo vào tình trạng hết sức lập lờ nước đôi, đồng thời tiếp
tục khống chế Phổ và tranh thủ thời gian để điều tra biên giới toàn
bộ lực lượng dự bị và những đơn vị mới thành lập trước khi chiến
sự có thể bắt đầu.
Bản thân việc đồng ý đàm phán sẽ cho phép rút ngay từ đội
quân giám sát của Nga ở biên giới Áo một số quân có thể thay
thế được trong vòng hai tháng hoặc mười tuần lễ tức là ít ra là 60
đến 80 nghìn người. Vì toàn bộ tập đoàn quân Đa-nuýp trước đây
không còn tồn tại như cũ, - lữ đoàn 4 đã ở Crưm từ cuối tháng
Mười, lữ đoàn 3 cũng đến đấy vào cuối tháng Chạp, còn bộ phận
1*
- đòn
2*
- hiện trạng
22 PH.ĂNG-GHEN 11 CHIẾN TRANH Ở CHÂU ÂU 23
còn lại của lữ đoàn 5 cùng kỵ binh và lực lượng dự bị hiện đang
trên đường đi đến Crưm, - nên để thay cho các đơn vị ấy cần
phải bố trí trên sông Búc và Đni-e-xtơ-rơ những đơn vị mới rút
từ quân đoàn miền Tây đóng ở Ba Lan, Vô-lưn và Pô-đô-li-a. Do
đó, nếu chiến tranh sẽ chuyển vào trung tâm lục địa thì thời hạn
hai - ba tháng có ý nghĩa quyết định đối với nước Nga, vì hiện
nay quân Nga bị dàn trải ra quá dài trên tuyến Ca-li-sơ - I-xmai,
không có quân tăng viện thì không thể tiếp tục chống được với
quân Áo có số lượng ngày càng tăng. Giờ đây Nga đã tranh thủ
được khoảng thời gian này, và dưới đây chúng tôi sẽ trình bày sự
chuẩn bị quân sự của nước Nga hiện đang ở vào giai đoạn nào.
Trước đây chúng tôi đã trình bày vắn tắt về tổ chức của quân
đội Nga18. Đội quân tác chiến lớn dành cho các chiến dịch ở
Nam và Tây Âu, ban đầu gồm có 6 quân đoàn, - mỗi quân đoàn
có 48 tiểu đoàn-, hai quân đoàn tinh nhuệ, mỗi quân đoàn có 36
tiểu đoàn cùng một số lượng khá lớn kỵ binh chính quy cũng như
không chính quy và pháo binh. Như chúng tôi đã đưa tin, chính
phủ không những đã gọi lính trù bị để thành lập các tiểu đoàn 4,
5 và 6 trong các đơn vị tinh nhuệ và các tiểu đoàn 5 và 6 trong 6
quân đoàn còn lại, mà còn dùng lính mới thành lập tiểu đoàn 7
và 8 ở mỗi trung đoàn, thành thử số tiểu đoàn trong 6 quân đoàn
chủ lực tăng gấp đôi, còn trong số quân tinh nhuệ (vệ binh và
tinh binh) thì tăng hơn hai lần. Hiện nay quân số của quân đội
Nga đại để như sau:
Vệ binh và tinh binh - ........................................................................
4 tiểu đoàn loại đầu
cho mỗi trung đoàn..................... 96 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn
................................................... có 900 người - 86 400
Vệ binh và tinh binh4 tiểu đoàn loại sau
cho mỗi trung đoàn..................... 96 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn
................................................... có 700 người - 67 200
Quân đoàn 1 và 2 (chưa tham
gia chiến đấu) 4 tiểu đoàn loại đầu,
hoặc còn gọi là 4 tiểu đoàn quân tác
chiến cho mỗi trung đoàn........... 96 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn
.................................................. có 900 người - 86 400
Quân đoàn 1 và 2 - 4 tiểu đoàn
loại sau cho mỗi trung đoàn....... 96 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn
................................................. có 700 người - 67 200
Quân đoàn 3,4,5 và 6 - các
tiểu đoàn tác chiến.................... 192 tiểu đoàn mỗi tiểu đoàn
................................................ có 500 người - 96 000
Quân đoàn 3,4,5 và 6
4 tiểu đoàn loại sau cho
mỗi trung đoàn......................... 192 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn
............................................... có 700 người - 134 400
Quân đoàn người Phần Lan...... 16 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn
............................................... có 900 người - 14 400
Tổng cộng............................... 784 tiểu đoàn 552 000
Ngoài ra: Kỵ binh chính quy.... 80 000
Kỵ binh không chính quy........ 46 000
Pháo binh............................... 80 000
Tổng cộng....... 758 000
Một vài con số chúng tôi đưa ra có thể tưởng như hơi cao,
nhưng thực tế không phải như vậy. Mặc dầu những tổn thất đã xảy
ra mà chỉ có 96 tiểu đoàn tác chiến của các quân đoàn 3, 4, 5 và 6
phải chịu đựng, con số lính mới đông đảo được gọi nhập ngũ từ
đầu chiến tranh tất phải làm cho số quân tăng lên nhiều nữa,
nhưng chúng tôi đã trừ đi một số rất lớn tân binh bị chết trên
đường về đơn vị. Ngoài ra, về kỵ binh chúng tôi đã tính rất thấp.
Trong số quân kể trên có 8 000 người (một sư đoàn của quân
đoàn 5) đóng ở Cáp-ca-dơ, do đó cần phải trừ số quân đó đi bởi
vì ở đây chúng tôi không bàn đến số quân được sử dụng ở ngoài
châu Âu. Số 750 000 người còn lại, đại để được bố trí như sau:
đóng ở bờ biển Ban-tích, dưới quyền chỉ huy của tướng Xi-vécxơ là tập đoàn quân Ban-tích gồm quân đoàn người Phần Lan và
các đơn vị dự bị của vệ binh, tinh binh và quân đoàn 6 - kể cả kỵ
binh và pháo binh có khoảng 135 000 người, nhưng một bộ phận
của tập đoàn quân này gồm những lính mới chưa được huấn
luyện và những tiểu đoàn tổ chức vội vã. Đóng ở Ba Lan và biên
giới Ga-li-xi từ Ca-li-sơ đến Ca-mê-nét-xơ là các đơn vị vệ binh, tinh
24 PH.ĂNG-GHEN 12 CHIẾN TRANH Ở CHÂU ÂU 25
binh, quân đoàn 1, một sư đoàn của quân đoàn 6 và một đơn vị
quân dự bị của tinh binh và quân đoàn 1 - cả thẩy khoảng 235 000
người, kể cả kỵ binh và pháo binh. Đạo quân này là bộ phận ưu
tú nhất của các lực lượng vũ trang Nga; nó bao gồm những đơn
vị tinh nhuệ và những đơn vị dự bị ưu tú. Đóng ở Bét-xa-ra-bi-a
và khoảng giữa sông Đni-e-xtơ-rơ và sông Búc là 2 sư đoàn của
quân đoàn 2 cùng với một đơn vị quân dự bị của chúng - tất cả
chừng 60 000 người. Những đội quân này vốn thuộc tập đoàn
quân miền Tây nhưng sau khi tập đoàn quân Đa-nuýp di chuyển
đến Crưm thì chúng được điều về vị trí cũ của tập đoàn quân Đanuýp. Hiện nay, những đội quân này đang trực diện với quân Áo
ở Các công quốc vùng Đa-nuýp và được đặt dưới quyền chỉ huy
của tướng Pa-nuy-tin. Dùng để phòng thủ Crưm có quân đoàn 3
và quân đoàn 4, một sư đoàn của quân đoàn 5, hai sư đoàn của
quân đoàn 6 và một đơn vị quân dự bị đã chuyển đến đây, ngoài
ra còn có một sư đoàn của quân đoàn 2, một sư đoàn của quân
đoàn 5 còn đang trên đường hành quân; quân số của tất cả những
đội quân ấy, kể cả kỵ binh và pháo binh, gồm ít ra là 170 000
người do Men-si-cốp chỉ huy. Tướng Sê-ô-đa-ép hiện đang tổ
chức một tập đoàn quân dự bị lớn gồm phần còn lại của quân dự
bị và của các binh đoàn mới, đặc biệt là của các quân đoàn 1, 2,
3, 4 và 5. Tập đoàn quân này tập trung ở vùng nội địa nước Nga
và sẽ có khoảng 150 000 người. Tất nhiên, không thể nói được
bộ phận nào của tập đoàn quân này đang trên đường hành quân
về Ba Lan hay phía nam.
Vậy là hồi mùa hè năm ngoái hoàng đế Ni-cô-lai mới có chưa
đầy 500 000 quân ở biên giới phía tây đế chế của ông, từ Phần
Lan đến Crưm, thì nay đã có 600 000 người ở đấy, ngoài ra còn
150 000 quân dự bị được tổ chức tại các vùng nội địa. Tuy nhiên,
so với Áo thì ông ta hiện có ít lực lượng hơn trước đây. Tháng
Tám và tháng Chín năm ngoái ở Ba Lan và Pô-đô-li-a có 270 000
lính Nga, còn ở khu vực sông Prút và sông Đni-e-xtơ-rơ thì bố
trí tập đoàn quân Đa-nuýp gồm khoảng 80 000 người - tập đoàn
quân này đóng giữ ở đây là do sợ người Áo hơn là sợ bất cứ ai
khác.Vì vậy, bấy giờ có thể điều động một đạo quân 350 000
người chống Áo. Hiện giờ, như chúng ta đã thấy ở đây chỉ có
295 000 người tập trung dọc tuyến tiền tiêu của Áo, trong khi đó
Áo đã điều 320 000 quân đối chọi với họ, mà lại còn có thể tung
70000 - 8000 quân đóng ở Bô-hêm và Mô-ra-vi, tăng viện cho
lực lượng này. Thế tương đối yếu về số lượng quân ấy của Nga
hiện thời và sự thiếu tin tưởng vào việc viện binh có thể đến kịp
vào mùa này từ vùng nội địa của một nước và nạn tham nhũng
hoành hành trong toàn bộ ngành hành chính, là những nguyên
nhân hoàn toàn đầy đủ khiến Chính phủ Nga ra sức tranh thủ thời
gian càng nhiều càng hay. Ưu thế về số lượng của kẻ địch cản
trở quân Nga mở những đợt tấn công, mà điều đó có nghĩa là khi
tác chiến ở địa hình trống trải, đặc trưng đối với Ba Lan, và thêm
vào đó giữa hai quân đội lại không có tuyến đường thủy lớn nào
ngăn cách, thì quân Nga ngay trong cuộc đụng độ đầu tiên sẽ
buộc phải rút về những vị trí có thể giữ được. Trong trường hợp
như vậy, điều đó hẳn sẽ dẫn tới việc chia cắt quân đội Nga thành
hai bộ phận mà một bộ phận phải rút về Vác-sa-va, còn một bộ
phận phải rút về Ki-ép, hơn nữa hai bộ phận ấy hẳn sẽ cách nhau
bởi vùng đầm lầy Pô-lê-xi-ê không qua lại được, kéo dài từ sông
Búc (không phải sông Búc ở miền Nam mà là nhánh của sông
Vi-xla) đến sông Đni-e-prơ. Trong tình huống này, nếu như đông
đảo quân Nga không bị xua vào vùng đầm lầy ấy thì quả là một
may mắn đặc biệt, hiếm thấy đối với quân Nga trong những
trường hợp như thế. Vậy là phần lớn miền Nam Ba Lan, Vô-lưn,
Pô-đô-li-a, Bét-xa-ra-bi-a, nghĩa là toàn bộ đất đai từ Vác-sa-va
đến Ki-ép và Khéc-xôn, ắt sẽ bị bỏ lại thậm chí không có một
trận chiến đấu nào. Mặt khác trong điều kiện có ưu thế về số
lượng thì quân đội Nga cũng sẽ có thể dễ dàng đuổi được quân
Áo ra khỏi Ga-li-xi và Môn-đa-vi-a trước khi quân Áo dám mạo
hiểm tiến hành một trận quyết chiến, và chiếm được các con
đường đi sang Hung-ga-ri; kết quả việc này chả khó gì mà không
hình dung thấy. Trong cuộc chiến tranh loại này giữa Áo và Nga,
chiến dịch tấn công thắng lợi đầu tiên quả thực có ý nghĩa cự kỳ
to lớn đối với cả hai bên, và mỗi bên đều gắng đem hết mọi khả
năng để đặt chân đầu tiên trên lãnh thổ đối phương.
Chúng tôi đã nhiều lần nói rằng chừng nào Áo chưa chống lại
Nga thì, xét theo quan điểm nghệ thuật quân sự, cuộc chiến tranh
hiện nay sẽ không làm cho người ta quan tâm như mọi cuộc chiến
26 PH.ĂNG-GHEN 13 CHIẾN TRANH Ở CHÂU ÂU 27
tranh châu Âu. Thậm chí sự kiện ở Crưm chẳng qua cũng chỉ là
một cuộc chiến tranh lớn trong phạm vi nhỏ. Những cuộc hành
quân dài vô tận của quân Nga, những tai hoạ của quân đồng minh
cho tới nay đã làm giảm số quân của các quân đội tham chiến đến
mức không cho phép tiến hành một trận chiến đấu thực sự lớn
nào. Nếu như mỗi bên chỉ có từ 15 đến 25 nghìn người tham gia
thì sao gọi là trận đánh lớn được. Trên dải đất nhỏ giữa Khéc-xôn
và Bác-si-xa-rai thì có thể tiến hành được những trận đánh có ý
nghĩa chiến lược và thực sự khoa học gì! Ngay cả ở đây nữa dẫu
giao tranh diễn ra như thế nào thì vẫn không bao giờ đủ quân sĩ để
chiếm lĩnh toàn bộ trận tuyến. Cái người ta không làm lại được
chú ý hơn cái người ta làm. Ngoài ra, mọi việc xảy ra đều mang
tính chất giai thoại chứ không phải tính chất lịch sử.
Nếu như hai đạo quân lớn hiện đang đóng đối diện nhau trên
biên giới Ga-li-xi khởi sự thì lại là chuyện khác. Dù ý đồ và năng
lực của các nhà chỉ huy ra sao đi nữa thì bản thân sự đông đảo của
các đội quân và tính chất của địa hình sẽ loại trừ cả cuộc chiến
tranh bề ngoài lẫn sự do dự. Ở đây, sự tập trung nhanh chóng,
những cuộc hành quân cấp tập, mưu trí quân sự và những trận vu
hồi đánh tạt sườn địch bằng những lực lượng lớn, sự thay đổi căn
cứ tác chiến và hướng tác chiến, nói tóm lại, sự cơ động và những
trận đánh quy mô lớn phù hợp với những nguyên tắc đích thực của
nghệ thuật quân sự sẽ trở nên hết sức cần thiết và là lẽ đương
nhiên; trong những điều kiện ấy, vị thống soái bị chi phối bởi những
lý do chính trị hoặc hành động thiếu kiên quyết sẽ không tránh
khỏi làm cho quân đội của mình bị tiêu vong. Cuộc chiến tranh có
quy mô như thế và trên địa hình như thế lập tức mang tính chất
nghiêm trọng và thực sự; chính vì vậy mà cuộc chiến tranh Nga -
Áo nếu nổ ra sẽ trở thành một trong những sự kiện đáng chú ý
nhất sau năm 1815.
Còn như triển vọng ký hoà ước thì hiện nay không rõ ràng
như mấy tuần trước đây. Nếu các nước đồng minh tỏ ra sẵn lòng
kết thúc cuộc chiến với điều kiện duy trì về cơ bản status quo,
thì chiến tranh có thể chấm dứt; nhưng hy vọng đó mỏng manh
biết nhường nào nên không cần phải giải thích cho bạn đọc
của chúng tôi nữa. Thật vậy, vị tất Nga đã chịu chấp nhận những
điều kiện mà Pháp và Anh có thể đưa ra hoặc có thể đồng ý trong
khi một nửa nước Đức, ít ra, là ủng hộ Nga về tinh thần và khi mà
nó đã động viên được những lực lượng lớn với con số đã được
chúng tôi nêu ở trên. Ít có khả năng là tiếp sau một chuỗi hầu như
liên tục những hoà ước có lợi kể từ thời Pi-ốt Đại đế cho đến
Hoà ước A-đri-a-nô-pôn19, lại sẽ có một hiệp ước từ bỏ sự thống
trị ở Hắc Hải vào lúc này khi mà Xê-va-xtô-pôn chưa bị thất thủ và
mới chỉ có một phần ba quân đội Nga được đưa vào hoạt động...
Nhưng nếu như hoà ước không thể được ký kết chừng nào số phận
của Xê-va-xtô-pôn và của cuộc viễn chinh của quân đồng minh
chưa rõ hẳn thì hoà ước lại càng phi hiện thực khi kết cục của chiến
tranh Crưm được quyết định. Nếu Xê-va-xtô-pôn thất thủ thì danh
dự của nước Nga - còn nếu như quân đồng minh bị đánh bại và bị
đuổi ra biển thì danh dự của các nước đồng minh - sẽ không cho
phép ký kết hiệp ước chừng nào chưa đạt được những kết quả quan
trọng hơn. Nếu trong thời gian chuẩn bị hội nghị mà hiệp định đình
chiến được ký kết - chúng tôi dự đoán khả năng này khi được biết
Nga hoàng đã chấp nhận bốn điểm - thì còn có căn cứ để hy vọng là
hoà ước sẽ được ký kết; trong tình hình hiện nay chúng tôi buộc
phải cho rằng một cuộc chiến tranh châu Âu quy mô lớn có nhiều
khả năng xảy ra hơn.
Do Ph.Ăng-ghen viết vào khoảng ngày 29
tháng Giêng 1855
Đã đăng làm xã luận trên tờ "New - York
Daily Tribune" số 4316, ngày 17 tháng Hai
1855
In theo bản đăng trên báo
Nguyên văn là ti ếng Anh In bằng
tiếng Nga lần đầu