Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thiên tài quận sự Nguyễn Huệ phần 8 pptx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
256
Tin tức về loạn Tây Sơn ở Nam Hà được truyền đi đến các thuộc địa Anh - Pháp
ở Ấn Độ nhờ những chuyến tàu buôn Tây phương ghé Đà Nẵng. Ta đã nói đến hai
chiếc tàu Macao. Vào khoảng tháng 9-1777, chiếc tàu Diligent ghé Đà Nẵng chở về
Ấn Độ L.M Jean de Loureiro, y sĩ của chúa Nguyễn, với hai vị quan đại thần xin đi
nhờ vào Gia Định. Loureiro có vận động cầu cứu Tây phương giùm cho chúa
Nguyễn. Thế là Anh - Pháp lại có đề tài để xung đột nữa. Warren Hastings, toàn
quyền Anh, phái Chapman đi dò xét khoảng tháng 7-1778. Trước đó và cùng năm,
viên tư lệnh thành Chandernagor, Chevalier, cũng đã thúc đẩy viên toàn quyền Pháp
ở Pondichéry, De Bellecombe, nên nhân dịp này mà “hưng khởi uy thế và tăng tiến
nền thương mại quốc gia”. Ông nhấn mạnh thêm rằng nếu không chịu làm trước
người Anh, họ sẽ can thiệp vào và người Pháp “năm sau, sẽ đau đớn được tin rằng
người Anh vừa có một thuộc địa mới nữa”2
.
Nhưng xung đột về Nam Hà không xảy ra giữa hai đế quốc. Chiến tranh Độc lập
Hoa Kỳ (1775-1783) giải toả vấn đề Nam Hà. Hai chính quyền không lưu ý tới thì
vấn đề bỏ lừng cho các sáng kiến cá nhân.
Từ trào lưu xuất cư vào cuối thế kỷ XV, các thương nhân Tây phương đã chứng
tỏ tinh thần mạo hiểm phiêu lưu của họ. Chúng ta hãy nhận định ưu điểm của đám
thương nhân nói chung về tinh thần mạo hiểm, sáng kiến un đúc thêm trong khi di
chuyển so với đám người ở lì một chỗ, bảo thủ, kiến thức hẹp hòi, thiếu gan dạ. Hãy
xét hành tung một Châu Văn Tiếp sau khi chống Tây Sơn, được triệu hồi về Gia
Định đã lại ra Phú Yên chống đánh sát bên nách địch. Rồi khi Chúa chạy, quân tan,
lần mò theo đường thượng đạo đi cầu viện, nhận được lời hứa, Tiếp lại theo đường
rừng về tìm Chúa. Con người trung kiên đó đã từng đi buôn nguồn với chúa Tây Sơn
là một ví dụ về tinh thần mạo hiểm của đám thương nhân.
Nhưng thương nhân Tây phương nhờ vào một phong trào rộng lớn hơn, đã có
những hành động quyến rũ hơn. Chúng ta lưu ý đến một tác giả của hậu bán thế kỷ
XIX, cũng là một tay phiêu lưu, ca tụng đám người tiền phong: “Vì một bao hạt tiêu,
họ không ngần ngại cắt cổ nhau, từ chối sự cứu rỗi linh hồn, điều mà ở vào những lúc
khác, họ đã tỏ ra rất bận tâm. Cái lối cứng đầu cứng cổ kỳ lạ trong khi theo đuổi ý
muốn làm cho họ thách đố với chết chóc ở hàng ngàn hình thức: những rủi ro của
biển cả xa lạ, các bệnh kỳ dị và ghê tởm, thương tích, bắt bớ, đói rét, dịch tể, tuyệt
vọng. Điều đó làm cho họ trở nên to lớn, anh hùng, bi thống ngay cả trong những
ham muốn buôn bán không thoả mãn của họ, trong khi cái chết lạnh lùng đến đem họ
đi không chừa già trẻ. Hình như khó có thể tin rằng nội một lòng tham lam lại thúc
đẩy những người ấy theo đuổi ý tưởng một cách liên tục, cố gắng và hy sinh một
cách kiên trì như vậy... Với chúng ta, những người kế tục mà những thử thách như
thế đã tránh khỏi, họ có vẻ sáng rực lên không phải vì những thành quả họ đã đạt
được mà là vì chúng ta thấy ở họ những công cụ của định mệnh đã xô đẩy họ đi vào
nơi vô định, tuân theo một tiếng nói bên trong, một khích động toàn thể để đi tìm một
giấc mộng xa vời...”3
Riêng Đông Nam Á, điển hình cho đám người phiêu lưu này ở cuối thế kỷ XVII
là Constantin Phaulkon đã làm cho Louis XIV tưởng thực hiện được tham vọng làm
chủ một quốc gia: Xiêm La dưới triều Phra narai. Thế kỷ sau, thành công ở Ấn Độ
của Dupleix (Pháp), Clive (Anh) về tiền bạc, danh vọng, gây nên sự thèm khát, ganh
257
ghét ở các chính quốc. Vẻ huy hoàng rực rỡ của các triều đình Đông phương vẫn còn
làm ngợp những tay phiêu lưu. Công ty Đông Ấn Độ Pháp suy sụp, Đế chính Pháp
tan rã, các chức việc, võ quan thất nghiệp đua nhau đem kiến thức phục vụ các ông
hoàng Ấn chống với người Anh. Trình độ kỹ thuật thu nhận ở quốc gia xuất phát,
tinh thần gan dạ kèm với óc tổ chức khiến họ nổi bật lên giữa đám người họ phục vụ.
Cho nên, không lấy làm lạ rằng những viên lính thuỷ đào ngũ của Pháp lại giữ những
vai trò điều khiển quan trọng trong thuỷ quân Nguyễn Ánh sau này.
Hành động song song với đám người phiêu lưu vì tư lợi này còn có những kẻ
được gọi là Lớp người Phiêu lưu của Chúa và của Lòng Bác ái, tức là các tu sĩ Thiên
Chúa giáo. Họ đi truyền giáo với mục đích đem những người “ngoại đạo” trở về
nước Chúa. Ta cũng thấy ở họ tinh thần mạo hiểm không sợ gian nguy. L.M. Laneau
can dự vào vụ Phaulkon bị bắt giam ở Ayuthia đến tháng 4-1691 mới được thả.
Trong tù, ông viết thư (6-1690) cho Louis XIV: “Chúng tôi sẽ làm lại như cũ nếu
phải bắt đầu làm lại...”4
Nhưng đồng thời, các tu sĩ này cũng không thể nào tách rời quyền lợi đạo giáo
với quyền lợi tổ quốc của họ. Viên Tư lệnh thành Chandernagor đã nói rõ ràng trong
một bức thư gởi cho Toàn quyền Pondichéry (12-2-1778): “Tôi luôn luôn lấy làm lạ
rằng tại sao ông Bộ trưởng không ra lệnh cho các tu sĩ ở các nơi liên lạc thư từ với
các người cầm quyền để báo cáo cho họ biết về tình hình chánh trị những nơi họ ở,
với các chi tiết về buôn bán mà ta có thể gây được ở nơi đó. Điều đó chắc chắn có ích
cho quyền lợi chung hơn là vài tên tín đồ mà họ phải chăm sóc. Với lại làm cả hai
việc không có gì là mâu thuẫn hết. Trong khi một người là L.M, họ không nên quên
rằng tình trạng tiên khởi của họ là người của vua họ và phải chú trọng đến việc phục
vụ cho vua trong mọi việc cần đến họ”.5
Không phải là chính quyền ép buộc, các tu sĩ cũng công nhận việc phục vụ cho
vua họ như một bổn phận thiêng liêng. Laneau trong thư nói trên, không ân hận đã bị
bắt, vì “điều đó có liên quan quá nhiều đến thanh danh của Hoàng thượng.”
Chính trong cái ý thức tâm lý chung đó của thời đại mà chúng ta thấy các giáo sĩ
đều đồng loạt hành động như nhau. Không phục vụ cho vua họ ở chính quốc thì họ
phục vụ cho vương quyền nơi họ trú ngụ, nhất là khi đường lối phục vụ này có hy
vọng dẫn đến kết quả tốt đẹp cho sự phát triển Đạo. L.M Jumilla có lần chê trách vua
tôi nhà Nguyễn mà cũng phải theo phản ứng tự nhiên cho Duệ Tông chui xuống gầm
giường, thoát tay Tây Sơn Nguyễn Lữ
6
. Các L.M ở Đồng Nai cũng như ở Thuận Hoá
đều gọi Tây Sơn là “bọn phản loạn” (les révoltés), gọi Nhạc, Huệ là “kẻ bạo chúa”,
“kẻ thoán đoạt” (le tyran, l’ursurpateur), bày tỏ trong các thư gởi đi tấm lòng hướng
về cựu Nguyễn của họ. Chót hết là Bá-đa-lộc đã gạt bỏ bao lời mời gọi, dẫn dụ của
Tây Sơn để hành động cương quyết trợ giúp Nguyễn Phúc Ánh. Cho nên, chính trong
khung cảnh dó, có những tham vọng để phục vụ cá nhân, quốc gia hay tôn giáo từ
bên ngoài sẵn sàng nhảy vào can thiệp mà chiến tranh chấm dứt phân chia ở Đại Việt
thấy thêm một yếu tố quyết định vậy.
______________________________________
1. G. Taboulet, La geste française en Indochine, tome I t. 154, 155.
2. Thư đề ngày 12-2-1778 ở Chandernagor (G. Taboulet, sđd, t.159).
3. Hutchinson và Berland. “Aventuriers au Siam au 17e siècle”: BSEI. XXII. 1947, t. 13.
4. Aventuriers au Siam...”. bđd, 1.148.
258
5. M. Gaudart. “Les archives de Pondichéry et les entreprises de la Compagnie française des Indes
en Indochine au 18e siècle”, BAVH, Oct- Déc 1937, t. 367.
6. BSEI, XV. 1940. bđd, t. 84.
Chương 2
GIA ĐỊNH,
ĐẤT TRANH CHIẾM QUYẾT LIỆT
ĐẤT GIA ĐỊNH VÀ CHÚA TÔI NHÀ NGUYỄN
*Tình trạng khai thác và tiềm lực của Gia Định * Trịnh chúa từ bỏ ý định Nam xâm
* Đông Sơn Đỗ Thanh Nhân và Tây Sơn Nguyễn Lữ (1776) * Nguyễn Huệ tiêu diệt
họ Nguyễn (1777) * Nguyễn Phúc Ánh và một giai đoạn mới của lịch sử họ Nguyễn.
Đất Gia Định1
mà chú cháu Nguyễn Phúc Ánh dắt díu nhau vào hồi tháng 2 (Ất
Mùi 1775) là nơi lập thành do công khai thác của hai nhóm người: đám Minh thần
lưu vong nửa cướp, nửa quan và đám nông dân Việt nghèo khổ. Ở miền Đông,
Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên khai phá đất đai và đáng chú ý hơn, họ mở
mang thương cục, làm giàu bằng cách mua bán với đủ các hạng người: Trung Hoa,
Tây phương, Nhật Bản, Chà-và (Mã Lai)2
. Về phía cực Tây, Cảng Khẩu
3
Hà Tiên
của Mạc Cửu cũng thịnh vượng bằng những sòng bạc rút tiền của đám thương nhân
và bọn lưu dân Phú Quốc, Cần Giọt (Kampot), Rạch Giá, Vũng Thơm (Kompong
Som), Trũng Kè, Cà Mâu4
. Đám nông dân Việt thì phá rừng, vỡ đất, giành giựt đất
ruộng của người Miên bản xứ
5
.
Tất nhiên với sự khai thác vội vã như vậy, bản đồ xứ Gia Định vào hậu bán thế
kỷ XVIII có những nét riêng biệt.
Việc Nguyễn Ánh tổ chức hành chánh ba năm sau (1778) cho ta thấy một vài
đặc điểm đó. Ông hoạch định bản đồ và chia ranh giới cho các dinh Trấn Biên, Phiên
Trấn, Long Hồ liên lạc nhau. Dinh Trấn Biên lãnh một huyện (Phước Long) và 4
tổng (Tân Chánh, Bình An, Long Thành, và Phước An). Dinh Phiên Trấn lãnh một
huyện (Tân Bình) và 4 tổng (Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc, và Bình Thuận).
Dinh Long Hồ cải làm dinh Hoằng Trấn lãnh một châu (Định Viễn) và 3 tổng (Bình
An, Bình Dương, Tân An). Đạo Trường Đồn (Định Tường) lãnh một huyện (Kiến
An) và 3 tổng (Kiến Đăng, Kiến Hưng, Kiến Hoà)6
. Rõ ràng là dân chúng (Việt) đã
tập trung ở các thị trấn lớn và còn rải rác ở các nơi xa. Vùng Hà Tiên vì chiến tranh
với Xiêm đã bị tàn phá, dân cư thất tán mãi đến thời trung hưng của Nguyễn Ánh
(1788) cũng chưa gượng dậy được và còn chịu ảnh hưởng binh lực của người Xiêm.
Các thị trấn Việt giăng hàng từ cù lao Đại Phố (Biên Hoà), Gia Định, Mỹ Tho, Long
Hồ, Cần Thơ cắt đứt hẳn một khối đông đúc dân Miên ở khu vực Bassac, Trà Vinh
đoạn tuyệt với chính quốc của họ. Khối dân này được hưởng sự thịnh vượng thương
mãi do các cửa Cổ Chiên, Bassac, Mỹ Thanh vẫn là một ổ rối loạn, mệt cho những ai
nắm quyền xứ Gia Định. Chính uy quyền của họ Nguyễn làm cho phần đất phức tạp
này trở thành Đại Việt tách ra khỏi con mắt dòm ngó, không phải của đám vua quan
Chân Lạp suy yếu mà là của quốc gia Xiêm đang lớn mạnh.
Đi vào Gia Định, Duệ Tông không những tránh thoát được gọng kìm Trịnh -
Tây Sơn, bỏ rơi được vào tay địch một kẻ tranh quyền với mình mà còn kỳ vọng nơi
đạo quân Tống Phúc Hợp để mưu đồ khôi phục. Kỳ vọng đó không phải là vô căn cứ