Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Thiên tài quận sự Nguyễn Huệ phần 11 pot
MIỄN PHÍ
Số trang
21
Kích thước
255.6 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1153

Thiên tài quận sự Nguyễn Huệ phần 11 pot

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

339

Cơm ăn thường ngày lẫn với một ít gia vị, mỡ súc vật. Bữa cơm của viên trấn

thủ Tourane đãi phái đoàn Macartney khá thịnh soạn. Có những đĩa đựng thịt heo,

thịt bò xắt miếng chấm nước rất ngon (nước mắm?). Có những đĩa đựng cá, thịt gà

hấp (luộc?) và rất nhiều trái, mứt. Số đĩa dàn ra ba hàng đến hơn 100 cái. Trước mặt

các thực khách bày ra các bát cơm và hai lông nhím để xiên thịt. Cái thìa bằng sứ

như bây giờ còn thấy ở các nhà sang. Sau bữa ăn người ta mời uống giáp vòng các ly

rượu đế nhỏ. Không thấy Tổng trấn mời người Anh thưởng thức những chén trà tàu

mà Phạm Đình Hổ thèm tiếc

8

.

Khách ngoại quốc ngạc nhiên sao ta không biết dùng rượu vang tuy dây nho

mọc đầy núi. Thuộc vào hàng chất say, họ chú ý tới trầu cau. Người ta đựng trong

một túi lụa có nhiều ngăn treo nơi lưng quần. Người giàu có đầy tớ mang ống điếu

hầu. Nhưng chính họ tự mang trầu cau trong một túi nhỏ bỏ vào ruột tượng quàng từ

trên vai xuống dây lưng. Gói trầu là một trong những vật kể vào đồ mặc chính. Ở

Quảng Nam có rất nhiều bông vải. Trẻ con lột lấy múi bông rồi đàn bà kéo sợi, dệt

vải, thường đem nhuộm chàm đi. Dân chúng cả đàn ông lẫn đàn bà đều mặc những

cái áo dài thật rộng, cổ chật, trước ngực nhiều lằn xếp, cánh dài phủ cả bàn tay.

Người quý phái mặc áo trùng, cập đôi, cập ba. Áo thứ nhất dài chấm đất, chiếc ngoài

cụt hơn một chút. Cứ như vậy nếu có cập nhiều màu thì ta thấy có hình dạng cầu

vồng sặc sỡ. Đồ lót gồm có một áo cánh lụa hay vải và không quần cụt. Quần dài

cùng thứ vải với áo.

Phạm Đình Hổ cho biết

9

người ở quê mặc áo vải trắng thô, học trò hay người

thường lúc việc công mặc áo xanh lam (thanh cát) hoặc sẫm, hoặc lợt, hoặc sừng lúc

có quốc tang, lúc thường mặc áo thâm. Đàn bà miền Bắc vẫn mặc váy10

.

Đàn bà đội nón, không đội mũ. Đàn ông hoặc lấy khăn chít đầu, hoặc đội các

thứ nón tu lờ của nhà sư (cư diện), nón sọ nhỏ (xuân lôi tiểu), nón vỏ bứa (toan bì)11

,

nón mo cau của lính Tây Sơn bắt chước người dân lúc đội đi đường

12. Tất cả đều đi

chân đất. Nhưng ta thấy người sang di chuyển bằng ngựa, bằng cáng như lúc Tây

Sơn khởi loạn, bằng võng mành mành cánh sáo13

.

_____________________________________

1. Thực lục q5, 9a, 32b; q6, 2b, 3ab; q7, 12ab.

2. Thực lục q7, 24ab.

3. Những bằng chứng về sinh hoạt kể ở đây, nếu không chú rõ xuất xứ, thì đều lấy từ những điều

mà nhân viên phái bộ Macartney quan sát ở Tourane.

4. Tờ sức về việc thu thuế lâm sản ngày 9-4-1790 đã dẫn. Tự Do, số 1757, 19-1-1963.

5. Thực lục q5, 17b, tháng 5 âl. 1791.

6. Bộ Quốc gia Giáo dục VNCH xuất bản, 1962, t. 89.

7. Thư ngày 3-12-1790 (A. Launay III, sđd, t. 280).

8. Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn dịch trong “Tồn cổ lục”, Nam Phong, V, t. 137.

9. “Vũ trung tuỳ bút”, Nam Phong, XXI, t. 462, 463 hay “Tồn cổ lục, IV, t. 206.

10. Hoàng Lê. t. 36.

11. Các số Nam Phong trên IV, t. 205, XXI, t. 461, 462, Phạm Đình Hổ kể các thứ nón riêng cho

từng hạng người: ở kinh kỳ (nón cổ chầu), trẻ (tiểu liên diệp), lính (trạo lạp), người hầu hạ, vợ

con (viên đấu sư), có tang (xuân lôi đại) … nhưng trước đó soạn giả có nói tới việc thay đổi ăn

mặc, giao tiếp dưới đời Trịnh Sâm.

12. Thực lục, q10 37b.

13. Chuyện trộm cắp của “Vũ trung tuỳ bút”, Nam Phong, XXI, t. 561.

340

Trên một bức hoạ của J. Barrow để lại

1

chúng ta thấy một nhóm người ngồi chơi

ngoài trời. Ở mặt tiền bên phải một người có vẻ lính vì có giáo dài, có tấm khiên

đánh giặc, đầu vấn khăn, quần cụt, ở trần lộ ra những bắp thịt rắn chắc. Trước mặt

anh ta là một bàn cờ tướng. Phía sau anh và ngồi nhìn nghiêng mặt là một người đàn

bà tóc vấn ở trần hở ngực, nét mặt thanh tú, nhẹ nhõm như Barrow đã công nhận.

Những người bên trái hoặc phía sau nữa có vẻ sang hơn: một ông già áo quần rộng

thùng thình, đội khăn phủ vai, có người đội nón lá chóp đã tơi, che thêm cái dù và có

người đội nón thượng. Tất cả đều có vẻ thư thả thung dung trong một khung cảnh

nhàn tản như túp lều với hàng cau, dãy núi làm nền cho bức vẽ.

Đám quân lính thì có điều đặc biệt hơn. Quân Tây Sơn mang giáo rất dài trang

trí bằng một cục tua nhuộm đỏ và màu đỏ này không ai được mang ở áo quần cũng

như vật dụng và chỉ dành riêng cho quân đội thôi (họ vẫn giữ gìn được mối quyến rũ

của lá cờ đỏ những ngày mới nổi dậy!). J. Barrow tả lính Gia Định không đồng phục

về màu sắc cũng như về kiểu mẫu. Thường ra, một chiếc khăn quấn đầu đôi khi trùm

khắp, một chiếc áo cánh hay áo chẽn xuề xoà với một quần cụt là trang phục của lính.

Nhưng khi triều đình có việc thì họ mặc đặc biệt hơn, đội mũ giấy bìa cứng treo đuôi

bò màu đỏ loét. Các áo chiến choàng ngoài và các vạt áo lấm chấm thì hoàn toàn theo

kiểu cách Trung Hoa2

.

Đời sống thường nhật đó không phải lúc nào cũng êm đềm trôi qua. Trong giai

đoạn chiến tranh này, dân chúng đã trải qua những tai hoạ khủng khiếp. Ta đã nói tới

những thảm cảnh đói ở Thuận Hoá năm 1775, đã tưởng tượng trận dịch tể làm hao

mòn một nửa quân Trịnh ở nơi đó rồi. Hãy nghĩ thêm những khi lính tráng đắc thế

như lúc loạn Kiêu binh. Họ phá nhà Huy quận công Hoàng Đình Bảo “không còn

mảnh ngói”, phá cả nhà “những quan thị mọi ngày có tánh khắc khổ mà họ vẫn ghét.

Họ còn lùng những người đó mà giết nữa là khác”. Trịnh Tông chém một người để

thị oai thì việc phá nhà tạm dừng, nhưng việc bắt người vẫn chưa thôi hẳn

3

. Dân

chúng ở Quảng Nam, Thuận Hoá cũng phải chịu áp lực của những người có chút

chức vị và bọn lính tráng tàn ngược. Ở Gia Định, lính và cả quan cũng đi trộm cướp,

có người có chức khá lớn như Cai cơ Nguyễn Văn Triệu, Ngô Công Thành, Nguyễn

Văn Đại ở dinh Vĩnh Trấn. Cấm vệ binh của Nguyễn Ánh được ưu đãi, quyền lớn

nên có kẻ giả mạo để đi ăn cướp khỏi bị tội khiến Ánh phải lập thẻ lính để kiểm soát.

Lính ngang tàng đến nỗi dân Bắc Hà phải gọi là “cha”!

Cho nên, khi tình thế đảo ngược có dịp trả thù là dân chúng không từ nan. Quân

Trịnh đóng ở Huế khi bị Nguyễn Huệ phá vỡ chạy ra ngoài thành đều bị dân chúng

giết chết. Kiêu binh ở tứ trấn khi Nguyễn Khản ủng hộ Trịnh Khải chống họ, họ trốn

đi qua các làng xóm buột miệng nói lộ ra tiếng Thanh Nghệ đều bị dân quê bắt giết,

đành phải giả người câm đi ăn xin cùng đường. Một hoạt cảnh mà Hoàng Lê kể lại

nói lên đầy đủ thái độ dân đối với quan và lính trong thời loạn:

“Khi Tây Sơn vào Thăng Long, Kiêu binh chạy ra các làng bị dân quê kể tội

kiêu lộng ngày trước không chứa chấp và làm nhục nhã đủ đường. Có người cởi trần

trùng trục hốt hoảng ở phía trong thành chạy ra khi qua cửa ô bị dân ở đó trông thấy

và chỉ mặt nói:

“Thằng bụng phệ kia có lẽ là lính Nhưng kiện, lôi cổ nó lại mà đánh chết đi.

“Người ấy vội đáp:

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!