Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
VŨ MẠNH CƢỜNG
NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TSKH Đào Trí Úc
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Vũ Mạnh Cường là học viên lớp Cao học Luật Đồng Nai Khóa 1,
niên khóa 2010 – 2012. Chuyên ngành Luật Hình sự và tố tụng hình sự - Mã số
60380104.
Tôi được Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh phân công thực hiện
luận văn thạc sỹ Luật học với đề tài " Ngƣời đại diện hợp pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam "
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Người cam đoan
Vũ Mạnh Cƣờng
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu .................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. Khái niệm, vị trí, vai trò của ngƣời đai diện hợp pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam............................................................................................................. 10
1.1 Khái niệm về người đại diện hợp pháp ..................................................................... 10
1.2 Vị trí, vai trò của người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ............ 18
Chƣơng 2. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về ngƣời đại diện hợp
pháp .................................................................................................................................. 24
2.1 Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ; bị can; bị cáo ................................ 24
2.1.1 Người bị tạm giữ và người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ ..................... 26
2.1.2 Bị can và người đại diện hợp pháp của bị can ......................................................... 31
2.1.3 Bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo ........................................................ 36
2.2 Người đại diện hợp pháp của người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án .......................................................... 43
2.2.1 Người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại .................................. 43
2.2.2 Nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự .............. 51
2.2.3 Bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của bị đơn dân sự ................................ 54
2.2.4 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án...................................................... 56
Chƣơng 3. Thực tiễn áp dụng các quy định về ngƣời đại diện hợp pháp trong
tố tụng hình sự và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về ngƣời đại diện hợp
pháp .................................................................................................................................. 62
3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình
sự ....................................................................................................................................... 62
3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện hợp pháp trong tố tụng
hình sự............................................................................................................................... 71
Kết luận ........................................................................................................................... 80
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên đường đổi mới toàn diện với mọi lĩnh vực của đời
sống, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do vậy, mở rộng dân chủ, tăng
cường pháp chế, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với pháp
luật trước hết là phải có những quy định chặt chẽ về việc bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Điều 50 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân được
quy định trong Hiến pháp và pháp luật”. Việc quy định này cũng chỉ là hình thức
nếu nó không được thực hiện trong thực tế. Bảo vệ quyền con người là mục tiêu và
nhiệm vụ trọng tâm của các thiết chế nhà nước và pháp luật dân chủ. Bảo đảm thực
hiện có hiệu quả các quyền công dân đã được pháp luật quy định là tiêu chí để đánh
giá sự văn minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự con người dễ bị tổn thương và bị vi phạm
quyền, lợi ích hợp pháp hơn so với những lĩnh vực khác do tính chất bất bình đẳng
của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự dễ dẫn đến khả năng người tham gia tố tụng
bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế, bởi xu hướng đề cao lợi ích chung của xã hội
khi giải quyết vụ án… Con người trong tố tụng hình sự, bao gồm những người tham
gia tố tụng (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án…) và người tiến hành
tố tụng đều có khả năng bị gây ra thiệt hại và bị vi phạm quyền con người, trong đó,
người tham gia tố tụng là bị vi phạm nhiều nhất.
“Quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trước hết
được thực hiện trong các quy định của pháp luật về quyền con người và quy định về
2
mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong thực tế hoạt động Nhà nước”1
. Bảo
vệ quyền con người nói chung, của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
nói riêng được thực hiện trong pháp luật tố tụng hình sự bằng các hình thức, biện
pháp khác nhau, trong đó, các biện pháp quan trọng nhất là ban hành các quy định
đúng đắn, hợp lý, khả thi trong pháp luật tố tụng hình sự và bảo đảm thực hiện các
quy định đó trên thực tế.
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể tự mình bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình hoặc có thể thông qua những người khác như luật sư,
người đại diện hợp pháp, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình. Các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp đó. Đây là một nguyên tắc đặc thù của Luật tố tụng hình sự được quy
định tại Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự với nội dung: “ Khi tiến hành tố tụng, Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện
trưởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Hội
thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân…”.
Quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
trong tố tụng hình sự chủ yếu là quyền bình đẳng trước pháp luật được quy định tại
Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự:“ Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín
1 Trần Văn Độ (2010), “ Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt
Nam, tr.98.
3
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều
bị xử lý theo pháp luật”.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể quy định tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng
hình sự như sau:
“Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê
chuển của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ
người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm mọi hành thức truy bức,
nhục hình”.
Quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản quy
định tại Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Công dân có quyền được pháp luật bảo
hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật.
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người
thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần
thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật”. Quyền bình đẳng trước Tòa án quy
định tại Điều 19 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương
sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu
cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án”. Và quyền bào chữa được quy định tại
Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự với nội dung: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền
bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Quyền này tiếp tục được quy định tại Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự:
“Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp
của họ lựa chọn” và tại Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Người đại
diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể
4
lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào
chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên
của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình”.
Cùng với sự pháp triển của pháp luật tố tụng hình sự các quyền, lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ngày càng được tôn trọng
và mở rộng hơn, đồng thời tạo những điều kiện tốt nhất để người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án thực hiện các quyền của mình. Điều đó thể hiện bản chất dân
chủ của pháp luật nước ta.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong những năm qua cho thấy mặc dù
pháp luật đã quy định khá chặt chẽ và tương đối đầy đủ nhưng các quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chưa được triệt để tôn
trọng và chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện để người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện. Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng,
không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án; xác định sai tư cách người tham gia tố tụng, người đại diện hợp
pháp hoặc không đưa người đại diện hợp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án tham gia tố tụng theo quy định vẫn còn xảy ra dẫn đến xét xử sai phải
sửa, hủy bản án, quyết định để điều tra, xét xử sơ thẩm lại từ đầu. Nguyên nhân, do
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa nhận thức được vị trí,
vai trò của người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự và việc bảo vệ quyền, lợi
5
ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có ý nghĩa và tầm
quan trọng như việc xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội.
Do vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử họ thường chú ý khía cạnh
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vộ tội và xem nhẹ việc tham gia tố
tụng của người đại diện hợp pháp cũng như việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến
quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, dẫn đến tình trạng vi
phạm quyền con người trong tố tụng hình sự. Điều này là không thể chấp nhận, làm
mất lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật, đi ngược lại với quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người được pháp luật bảo đảm thực
hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm.
Nghiên cứu đề tài Người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn
chế án bị hủy, sửa.
Mặt khác, hiện nay chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm
với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan
người vô tội, vi phạm quyền tự do dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp.
Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau do vậy, việc nghiên cứu vấn đề
Người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự góp phần vào việc thực hiện một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới mà Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số vấn đề trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới” đã đề ra, nó không những chỉ có ý nghĩa khoa học
mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc.