Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ QUỲNH CHÂU
NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 9.38.01.07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả phân tích trong luận án hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong luận án của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019
Tác giả
Trần Thì Quỳnh Châu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT NGHIÊN CỨU................................................................................... 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................... 8
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án........................ 21
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu .......................................................................... 27
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI
DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ............................... 33
2.1. Khái quát lý luận về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự..... 33
2.2. Khái quát lý luận pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự .................................................................................................................. 45
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................... 67
3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về người đại diện của đương sự trong
tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.................................................................... 67
3.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố
tụng dân sự .......................................................................................................... 99
Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ Ở VIỆT NAM .................................................................................. 126
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố
tụng dân sự ở Việt Nam .................................................................................... 126
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố
tụng dân sự ở Việt Nam .................................................................................... 135
KẾT LUẬN...................................................................................................... 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong thực tiễn xét xử các vụ việc dân sự những năm qua, sự tham gia tố
tụng dân sự của người đại diện của đương sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, cũng như việc làm rõ sự thật của vụ
việc dân sự, ngày càng chứng tỏ là một trong những thành phần không thể thiếu
trong tố tụng dân sự.. Chế định đại diện của đương sự dân sự cũng đã và đang
khẳng định ý nghĩa và vai trò của mình trong hệ thống pháp luật tố tụng dân sự,
Việc xác định đúng đắn vai trò cũng như hoàn thiện các quy định pháp luật về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là một việc làm cần thiết và có
ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, với tư cách là người tham gia tố tụng dân sự, hoạt
động của người đại diện cho đương sự có tác động không chỉ đến hoạt động của
những người tham gia tố tụng khác, mà còn tác động đến cả hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, góp phần thúc đẩy sự dân chủ, tiến bộ của xã
hội, hoàn thiện và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Người đại diện của đương sự là người tham gia tố tụng dân sự, thay mặt
đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của
đương sự. Việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết các vụ án dân sự, đặc biệt trong
trường hợp đương sự không tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
mình. Những quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được
quy định lần đầu trong Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989
và được tiếp tục quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004.
Gần đây nhất, là chế định về người đại diện của đương sự được quy định tại
BLTTDS năm 2015. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,
người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và
người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân
theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS). Tuy nhiên, khác với quy định về
người đại điện được quy định trong BLDS là người đại diện nhân danh và vì lợi
2
ích của người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, thì người đại
điện của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định là người tham gia tố tụng
dân sự, thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tòa án. Người đại diện của đương
sự tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự có vai trò rất quan trọng, đó
là, việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự có tác dụng bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là trong trường hợp họ là người bị
hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, việc tham gia
tố tụng của người đại diện của đương sự còn có tác dụng nhất định trong việc
làm rõ sự thật về vụ việc dân sự.
Thực tiễn hoạt động tố tụng trong những năm gần đây cho thấy, việc quy
định chế định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là hết sức cần
thiết, nhằm đảm bảo hoạt động tranh tụng được diễn ra theo đúng trình tự, thủ
tục pháp luật quy định, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên
đương sự. Số lượng các vụ việc có người đại diện cho đương sự tham gia vào
quá trình tố tụng dân sư ngày càng tăng và có tính chuyên nghiệp hơn. Thông
thường là hình thức đại diện theo ủy quyền với sự tham gia của các luật sư là
những người tranh tụng chuyên nghiệp, nên chất lượng của bản án, quyết định
của Tòa án cũng được nâng cao. Việc thực hiện các quy định về người đại diện
cho đương sự được thực hiện khá nghiêm túc. Đồng thời, Tòa án cũng đã phối
hợp, giúp đỡ góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện, kiểm tra, giám sát
các quy định về người đại diện của đương sự. Tuy nhiên, trải qua thực tiễn áp
dụng, những quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự đã
bộc lộ một số điểm bất cập, chưa cụ thể, thiếu tính thống nhất, có những vấn đề
cần thiết nhưng chưa được luật hóa, bên cạnh đó, những khó khăn từ thực tiễn áp
dụng pháp luật cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng dân sự và lợi ích hợp
pháp của đương sự không được đảm bảo như trong việc xác định vai trò của
người đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện…
3
Xuất phát từ vai trò của người đại diện của đương sự, thực trạng pháp luật
và thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân
sự, việc tìm hiểu, nghiên cứu về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân
sự đã trở thành một nhu cầu cấp bách. Cho nên, việc nghiên cứu, đánh giá một
cách toàn diện các quy định của pháp luật liên quan đến người đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt
động tố tụng dân sự, từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật về vấn đề này, nâng cao hiệu quả của hoạt động
tố tụng dân sự tại Tòa án, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích cho các bên tranh chấp
là rất cần thiết.
Với các lý do được phân tích ở trên, nên nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề
tài: “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” để
nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự
theo quy định của pháp luật Việt Nam, từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp cụ
thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận
án được xác định cụ thể như sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài luận án
nhằm làm rõ các vấn đề, nội dung sẽ được kế thừa và các nội dung cần tiếp tục
phải nghiên cứu và giải quyết trong nội dung luận án; làm rõ cơ sở lý thuyết
nghiên cứu đề tài luận án;
- Nghiên cứu, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự;
4
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực thi
pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; chỉ ra những hạn
chế, vướng mắc, bất cập trong thực trạng pháp luật và trong thực tiễn giải quyết
các vụ việc dân sự có người đại diện của đương sự tham gia tố tụng dân sự;
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đề xuất định hướng
và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự; hệ thống các quy
định của pháp luật Việt Nam về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân
sự. Bên cạnh đó, để làm rõ hơn các vấn đề nghiên cứu, luận án cũng khảo cứu
kinh nghiệm pháp luật một số nước về chế định người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự theo đúng yêu cầu của nội hàm đề tài.
Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt
Nam về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, cũng như thực tiễn
thực thi pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự tại các
Tòa án nhân dân ở Việt Nam. Việc khảo cứu kinh nghiệm pháp luật các nước về
chế định đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự qua tài liệu thứ cấp chỉ là
làm rõ hơn mô hình lý luận pháp luật về vấn đề này.
Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015. Tuy nhiên, phần nghiên cứu về thực tiễn thực thi pháp luật có liên hệ
với các vụ việc đã diễn ra ở các thời điểm trước đó.
5
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu theo phương pháp luận của triết học Mác -
Lênin, đồng thời, sử dụng các phương pháp truyền thống có độ tin cậy như phân
tích tổng hợp, lịch sử cụ thể và các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như:
phương pháp phân tích quy phạm, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh…
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra trong từng chương của đề tài,
những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sẽ được tác giả áp dụng như sau:
- Trong chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái
quát nhằm tổng quan tình hình nghiên cứu, làm rõ những vấn đề đã được giải
quyết, những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu, từ đó đưa ra cơ sở lý thuyết
nghiên cứu, xác định câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu…
- Trong chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái
quát nhằm làm rõ khái niệm, đặc điểm người đại diện của đương sự trong tố tụng
dân sự, từ đó phân tích làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự. Đồng thời phương pháp so sánh, đối chiếu
được sử dụng nhằm tìm hiểu chế định về người đại diện của đương sự trong
pháp luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới nhằm làm rõ thêm mô
hình lý luận pháp luật về vấn đề này.
- Trong chương 3, tác giả sử dụng phương pháp phân tích quy phạm, để
phân tích làm rõ các quy định của pháp luật, để thấy được những điểm tiến bộ,
đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành.. Mặt khác,
phương pháp khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật, phương pháp thống kê, phân
tích, tổng hợp, phương pháp nghiên cứu điển hình một số vụ án cụ thể được sử
dụng để đánh giá những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn áp dụng pháp luật về
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.
- Trong chương 4, các phương pháp phân tích và dự báo khoa học được sử
dụng chủ yếu trong việc đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về người đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.
6
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án đã nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về chế định đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam, cụ thể:
- Làm rõ các nội dung về phương diện lý luận pháp luật về người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự như: Khái niệm, đặc điểm của người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự; căn cứ xác lập đại diện, điều kiện trở thành
người đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, hậu quả pháp lý của việc
xác lập và chấm dứt đại diện, thời hạn đại diện, phạm vi đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự.
- Luận án cũng đã phân tích và đánh giá khách quan thực trạng pháp luật
và thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự tại Việt
Nam; làm rõ những bất cập, chồng chéo và những hạn chế của các quy định pháp
luật về người đại diện trong việc bảo vệ lợi ích của các bên đương sự trong tố
tụng dân sự. Những nội dung chủ yếu của các quy định pháp luật Việt Nam về
quyền và nghĩa vụ của người đại diện, căn cứ cũng như hậu quả pháp lý của việc
xác lập và chấm dứt quan hệ đại diện đã được luận án hệ thống hóa, phân tích và
giải thích, làm rõ.
- Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn đã được làm sáng tỏ, luận án
đã đưa ra những quan điểm và đề xuất các giải pháp đồng bộ, khoa học để khắc
phục những hạn chế và nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khái quát và làm
rõ hơn những vấn đề lý luận pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố
tụng dân sự, làm rõ nội hàm pháp luật của người đại diện theo pháp luật và
người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự. Những kết
luận, đề xuất, kiến nghị mà luận án nêu ra đều có cơ sở khoa học và thực tiễn. Vì
7
vậy, chúng có giá trị tham khảo trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện pháp luật tố
tụng dân sự.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ có giá trị tham
khảo cho cán bộ, thẩm phán của Tòa án nhân dân khi nghiên cứu, xét xử các vụ
việc dân sự có người đại diện của đương sự tham gia tố tụng; là tài liệu tham
khảo có giá trị cho các cơ sở nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng pháp luật có liên
quan đến chế định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án được kết cấu gồm bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu.
Chương 2: Những vấn đề lý luận pháp luật về người đại diện của đương
sự trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về người
đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại
diện của đương sự trong tố tụng dân sự ở Việt Nam.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nhóm nghiên cứu những vấn đề chung về lý luận và thực tiễn
pháp luật về chế định đại diện
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, đại diện là một chế định quan trọng trong
đời sống pháp lý xã hội. Bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng đều xem đây là một
chế định quan trọng, chế định trung tâm của luật dân sự hiện đại. Trên thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã có nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên
cứu về ngu ời đại diẹ n của đu o ng sự, điển hình như:
Trong cuốn “Thủ tục tố tụng dân sự” của hai tác giả - Stephen Gerlis,
Paula Loughlin - đã phân tích rõ nghĩa vụ của đại diện theo pháp luật trong việc
cung cấp thông tin cho khách hàng và cung cấp thông tin trước Toà án. Một đại
diện pháp lý hành động cho một bên phải nỗ lực để đảm bảo rằng bên kia hiểu
nhiệm vụ của mình tuân thủ việc tiết lộ. Một khi người được đại diện phát hiện
có những tài liệu bất lợi cho vụ việc của mình thì một đại diện hợp pháp phải
giải thích đầy đủ điều này cho khách hàng của mình. Thông tin phải được cung
cấp cả bằng miệng và bằng văn bản. Người đại diện theo pháp luật được yêu cầu
đưa ra bất kỳ lời giải thích nào bằng tiếng Anh đơn giản, để đảm bảo rằng khách
hàng hoàn toàn hiểu được loại thỏa thuận mà anh ta đang ký kết [137].
Theo tác phẩm “Bàn về thủ tục tố tụng dân sự” của tác giả J.A.Jolowicz
đã phân tích vai trò của người đại diện; nội dung những hoạt động của người đại
diện tập thể trong các vụ việc dân sự, đó là một hệ quả của việc công nhận quyền
trung gian rằng nếu các thủ tục tố tụng được đưa ra để bảo vệ họ, những người tố
tụng phải được đưa ra bởi một người đại diện. Điều này dẫn đến một số câu hỏi
về tính hợp pháp của người đại diện, cho dù cá nhân hay hiệp hội. Vai trò của
người đại diện chỉ là đưa ra câu hỏi để đi tới quyết định của Tòa án. Hình thức tố
9
tụng tập thể hoặc hành động đại diện tập thể được xử lý tốt nhất khi hành động
được đưa ra bởi một đại diện của một nhóm hoặc một nhóm người sẽ xuất hiện
để cung cấp cái nhìn cơ bản về nội dung thủ tục tố tụng rõ ràng nhất để bảo vệ
quyền lợi hoặc lợi ích của nhóm hoặc tập thể [138].
Trong cuốn “Các tài liệu và vụ việc về thủ tục tố tụng dân sự” của các tác
giả - Jack H.Friedenthal, Arthur R.Miller, John E. Sexton & Helen Hershkoff –
đã đề cập tới việc chỉ định người đại diện trong các vụ việc cụ thể; năng lực của
người đại diện; vai trò của người đại diện của bị đơn trong quá trình tố tụng, từ
thời gian được triệu tập để tiến hành thủ tục kiện tụng cho tới các phiên xét xử
tại toà. Một số cá nhân hoặc tổ chức chỉ có thể xuất hiện tại Tòa án thông qua đại
diện hợp pháp. Ví dụ như tài sản của một người quá cố, trẻ sơ sinh và một người
thiếu năng lực về tinh thần. Trong một nền dân chủ, nơi mà nhiều người không
có quyền lực lập pháp, vì họ quá ít về số lượng, hoặc quá phân tán để bầu đại
diện, hoặc vì họ không có nguồn lực tài chính để gây ảnh hưởng đến các nhà lập
pháp, tranh tụng tập thể trong lớp hoặc các hình thức đại chúng khác một chiến
lược thay thế cho hành động nhóm [134].
Trong nội dung cuốn “Thủ tục tố tụng dân sự tại Pháp” của tác giả Peter
E. Herzog đã nhắc tới việc chỉ định đại diện của Toà án tại Paris. Theo truyền
thống lâu đời, đại diện của công chúng là việc có mặt tại hội nghị, nhưng không
thực hiện bỏ phiếu. Bên cạnh đó, cuốn sách này còn đề cập tới việc một người
chồng lập gia đình theo các chế độ khác nhau để anh ta có quyền quản lý tài sản
của vợ mình cũng được coi là người đại diện của vợ, với kết quả là người vợ
không thể sử dụng phe đối lập với một phán quyết được đưa ra trong tranh chấp
được thực hiện bởi chồng cô mặc dù ảnh hưởng đến lợi ích của cô [136].
Trong cuốn “Mục tiêu pháp lý dân sự và thủ tục tố tụng dân sự trong hệ
thống tư pháp đương đại” của tác giả Alan Uzelac có nêu tới nội dung phân tích
về đại diện do Toà án chỉ định; các vụ kiện về đại diện; những rủi ro của người
làm đại diện trong vụ việc dân sự; sự ảnh hưởng của người đại diện trong vụ việc
dân sự. Chi tiết hơn thì nội dung của cuốn sách đề cập tới một số loại thủ tục
10
cung cấp quyền tiến hành kiện tụng đại diện cho một số hiệp hội hoặc cơ quan
công cộng độc lập (ví dụ: Verbandsklage) tồn tại ở một số khu vực pháp lý,
nhưng tất cả đều thu được nhiều lợi ích lý thuyết hơn mức độ liên quan thực tế.
Trên thực tế, rất ít hệ thống tư pháp dân sự chín muồi trong việc xử lý đầy đủ các
tuyên bố đa đảng ngay cả bằng phương pháp thông thường của vụ kiện và quản
lý tòa án (sáp nhập các vụ kiện, tranh tụng chiến lược, v.v.). Điều này rõ ràng
vẫn là thách thức để được giải quyết trong tương lai. Trong hai trường hợp: lợi
ích cá nhân và siêu tư nhân thì thường được kết hợp với các loại thủ tục tố tụng
đặc biệt, chẳng hạn như hành động tập thể hoặc đại diện. Luật Áo và Đức cho
phép một số hiệp hội hoặc cơ quan công lập độc lập có quyền đưa ra một hành
động đại diện cho việc cứu trợ bắt buộc hoặc tuyên bố trong các lĩnh vực cụ thể
của pháp luật. Ngoài ra còn có những bài đăng như: “Vai trò khác nhau của đại
diện” (The different roles of agents. De Voil Indirect Tax Intelligence) của tác
giả Newark [129]; “Luật đại diện” (Law Agency) của tác giả Wolfram MüllerFreienfels cũng đề cập nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của chế định đại
diện [149].
Ở Việt Nam, tác giả Ngô Huy Cương (2009) có bài viết “Chế định đại
diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn từ góc độ luật so sánh” đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4/2009. Theo tác giả, pháp luật dân sự của
các nước trên thế giới có nhiều cách hiểu và định nghĩa về đại diện khác nhau.
Ví dụ, Điều 99 Bộ luật Dân sự của Nhật Bản năm 2005 quy định về đại diện như
sau: Sự biểu lộ ý chí bởi người đại diện thể hiện rằng sự biểu lộ ý chí đó được
lập ra nhân danh người được đại diện trong phạm vi thẩm quyền của người đại
diện ràng buộc người được đại diện; các quy định này được áp dụng với những
sửa đổi thích hợp đối với bất kỳ sự biểu lộ ý chí nào bởi người thứ ba tới người
đại diện. Quy định này cho thấy: (i) Việc trao quyền đại diện không nhất thiết là
một hợp đồng, có nghĩa là có thể bởi các nguồn gốc hay căn cứ khác; (ii) Người
đại diện không nhất thiết phải hành động trong lĩnh vực xác lập hay thực hiện
11
giao dịch dân sự; (iii) Yêu cầu người đại diện phải thể hiện sự nhân danh người
được đại diện.
Pháp luật Anh giải thích thuật ngữ đại diện (agency) được sử dụng để chỉ
mối quan hệ tồn tại khi một người có thẩm quyền hoặc năng lực để tạo lập mối
quan hệ pháp lý giữa một người giữ vai trò là người được đại diện và người thứ
ba. Và nó được giải thích thêm là quan hệ đại diện xuất hiện bất kỳ khi nào một
người, được gọi là người đại diện (agent), có thẩm quyền hành động nhân danh
người khác, được gọi là người được đại diện (principal), và bằng lòng hành động
như vậy. Tương tự, Luận thuyết về đại diện (lần thứ hai) của Hoa Kỳ định nghĩa:
Đại diện là quan hệ ủy thác phát sinh từ việc biểu lộ sự ưng thuận bởi một người
với một người khác mà người sau này hành động nhân danh và phụ thuộc vào sự
kiểm soát của người trước, và sự ưng thuận bởi người sau hành động như vậy”.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, chế định đại diện có đặc điểm sau: Thứ nhất, là một
quan hệ ưng thuận mà trong đó người đại diện đồng ý hay ít nhất bằng lòng hành
động dưới sự chỉ dẫn hay kiểm soát của người được đại diện; Thứ hai, là một
quan hệ ủy thác mà theo đó người đại diện đồng ý hành động cho và nhân danh
người được đại diện. Từ sự so sánh pháp luật các nước về chế định đại diện, bài
viết nêu lên những vấn đề nổi bật và những khiếm khuyết còn tồn tại của Bộ luật
Dân sự năm 2005 cả từ phương diện lý luận lẫn trong thực tiễn dựa trên sự so
sánh của pháp luật các quốc gia khác [19].
Trong bài viết “Một số vấn đề về người đại diện theo ủy quyền và người
đại diện do Tòa án chỉ định trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh
trên Tạp chí Nghề luật số 06/2010 cũng đã trình bày một cách tổng quát về một
số vấn đề về người đại diện theo ủy quyền của đương sự và người đại diện do
Tòa án chỉ định. Bài viết phân tích những tồn tại và hạn chế trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành, đồng thời có đưa ra một số ví dụ thực tế trong
pháp luật về khía cạnh người đại diện theo ủy quyền và người đại diện do Tòa án
chỉ định trong tố tụng dân sự. Đặc biệt tác giả đã chỉ ra được những khoảng
trống trong Điều 73, 74, 75, 164 BLTTDS năm 2004 [32].
12
Cũng tác giả Nguyễn Thị Hạnh có công bố bài viết “Một số vấn đề về
người đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự” trên Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 03/2011. Theo quy định của BLTTDS, người đại diện của
đương sự có thể là: Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền
và người đại diện do Tòa án chỉ định. Bên cạnh đó đánh giá thực trạng vấn đề
người đại diện theo pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự nhằm chỉ ra
những thành công và hạn chế trong pháp luật hiện hành [33].
Năm 2012, tác giả Hồ Ngọc Hiển đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ
luật học với đề tài: “Đại diện cho thương nhân trong pháp luật thương mại Việt
Nam” [40]. Trong công trình này, tác giả đã làm sáng tỏ các nội dung lý luận về
đại diện cho thương nhân trong lĩnh vực thương mại, nêu bật được bản chất của
quan hệ đại diện thương mại. Đồng thời tác giả đã phân tích thực trạng pháp luật
Việt Nam về đại diện cho thương nhân, chỉ rõ những điểm phù hợp và những
điểm hạn chế như không thừa nhận thông lệ thương mại, tập quán thương mại,
quy định hình thức hợp đồng đại diện cho thương nhân phải bằng văn bản,
không thừa nhận đại diện theo thỏa thuận ngầm định, đại diện hiển nhiên; người
thứ ba chưa được quan tâm bảo vệ; một số quy định về quyền, nghĩa vụ của
người đại diện, về chấm dứt quan hệ đại diện... chưa hợp lý, gây cản trở khó
khăn cho các bên trong quan hệ đại diện, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền
kinh tế thị trường. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại
diện cho thương nhân trong lĩnh vực thương mại.
Cũng vào năm 2012, tác giả Lê Hùng Nhân bảo vệ thành công Luận văn
Thạc sĩ luật học với đề tài “Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự Việt
Nam” [54]. Luận văn đã phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận của người đại
diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự như khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của
đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự; phân tích các cơ sở khoa học của
việc xây dựng các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự, lịch
sử phát triển các quy định về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự; phân
tích, đánh giá những quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm