Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghiên cứu chẩn đoán sớm và đánh giá kết quả phẫu thuật u màng não vùng củ yên
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÕNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
NGUYỄN NGỌC KHANG
NGHIÊN CỨU CHẨN ĐOÁN SỚM
VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT
U MÀNG NÃO VÙNG CỦ YÊN
Chuyên ngành: NGOẠI THẦN KINH VÀ SỌ NÃO
Mã số: 62 72 07 20
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI – Năm 2012
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN QUÂN Y
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. NGUYỄN HÙNG MINH
2. PGS.TS. VÕ VĂN NHO
Phản biện 1:
PGS.TS. NGUYỄN THỌ LỘ
Phản biện 2:
PGS.TS. BÙI QUANG TUYỂN
Phản biện 3:
PGS.TS. ĐỒNG VĂN HỆ
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường
họp tại: Học viện Quân Y
Vào hồi 8 giờ 30 ngày 22 tháng 6 năm 2012
Có thể tìm luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc Gia Việt Nam.
- Thư viện Học viện Quân Y
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Ngọc Khang (2011), “Đánh giá sơ bộ kết quả điều trị
phẫu thuật u màng não vùng củ yên bằng đưởng mổ dưới trán
một bên tại bệnh viện Chợ Rẫy”, Tạp chí Y học thực hành, Bộ Y
Tế, (797), tr. 21-23.
2. Nguyễn Ngọc Khang (2011), “Đánh giá kết quả điều trị phẫu
thuật u màng não vùng củ yên khổng lồ tại bệnh viện Chợ Rẫy”,
Tạp chí Y học quân sự, Cục quân y Bộ quốc phòng, (277),
tr. 53-54.
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
U màng não (UMN) được biết đến rất sớm, Felix Plater có lẽ là người
đầu tiên mô tả khối UMN vào năm 1614. Harvey Cushing đã đưa ra thuật ngữ
Meningioma vào 1922 để mô tả loại u lành tính xuất phát từ hệ thần kinh
trung ương.
U màng não là một tổ chức tân sinh lành tính xuất phát từ màng nhện, u
chiếm một tỷ lệ đáng kể từ 15% - 23% các loại u trong hộp sọ. UMN phát
triển chậm và ít khi xâm lấn vào nhu mô não.
U màng não vùng củ yên (UMNVCY) chiếm tỷ lệ 7 - 12% các u màng
não nội sọ, đây là u lành tính và thường được phát hiện muộn, vì vậy khi có
biểu hiện lâm sàng thì kích thước u khá lớn. UMNVCY là một loại u lành
tính, u chèn ép vào dây thị và giao thoa gây giảm thị lực dần tới mù một hoặc
cả hai mắt, nếu để muộn dù có mổ lấy hết u giải phóng được dây thị thì thị lực
cũng chỉ hồi phục được một phần, nên UMNVCY cần được chẩn đoán và
phẫu thuật sớm mới có hy vọng chữa khỏi loại bệnh này.
Do vị trí của u nằm ở giữa sàn sọ, xung quanh có rất nhiều thành phần
quan trọng như mạch máu, thần kinh, tuyến yên và cuống tuyến yên nên đây
là một loại u khó phẫu thuật và nhiều tai biến. Để phẫu thuật loại u này đòi
hỏi phẫu thuật viên cần có kiến thức về loại bệnh này và có kinh nghiệm trong
phẫu thuật u vùng sàn sọ.
Hiện nay nhiều bệnh viện trong cả nước đã được trang bị các phương
tiện chẩn đoán hình ảnh hiện đại như cắt lớp vi tính (CT scan), cộng hưởng từ
(MRI).v.v... Với hình ảnh của cộng hưởng từ chúng ta có thể chẩn đoán chính
2
xác và khảo sát được liên quan của u với các tổ chức xung quanh trước khi
phẫu thuật.
Tại khoa phẫu thuật thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy mỗi năm trung bình
điều trị phẫu thuật trên 300 ca u màng não, trong đó u màng não vùng củ yên
chiếm tỷ lệ khoảng 8%.
Cho đến nay ở trong nước mới chỉ có báo cáo của Võ Văn Nho nghiên
cứu sơ bộ về phẫu thuật điều trị UMNVCY. Vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu kỹ về các đặc điểm của loại bệnh này nhằm đóng góp những kiến
thức giúp các phẫu thuật viên hiểu biết thêm và điều trị phẫu thuật tốt
UMNVCY.
Công trình này chúng tôi nghiên cứu với hai mục tiêu sau:
1. Khảo sát đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học để chẩn đoán sớm u
màng não vùng củ yên.
2. Đánh giá kết quả vi phẫu thuật điều trị u màng não vùng củ yên.
3
CHƯƠNG 1.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Ngoài nước
Năm 1743 Francois Quesnay đã đưa ra ý tưởng cắt đi một phần não để
lấy đi phần mô mới tăng sinh dạng nấm [32], [33].
Năm 1703-1769 Atonie Louis thu thập được 20 ca u não dạng nấm
vùng thái dương có kèm theo dầy xương. Theo ông, những u này xuất phát từ
màng cứng chèn ép lên mô não [33].
Năm 1916 Cushing là người đầu tiên mô tả mổ lấy toàn bộ u màng não
vùng củ yên [33].
Năm 1922 Cushing lần đầu đưa ra thuật ngữ “Meningioma” để nói đến
một u lành tính xuất phát từ màng não của hệ thần kinh trung ương [33].
Từ năm 1903-1932 Cushing và Eisenhardt đã phẫu thuật 313 u não, vấn
đề khó khăn nhất trong phẫu thuật là máu chảy dữ dội khó cầm [32].
Từ năm 1927 Cushing đã sử dụng dao mổ bằng điện trong phẫu thuật,
từ đó vấn đề cầm máu được cải thiện đáng kể.
Năm 1938 Cushing và Eisenhardt đã mổ được 27 ca u màng não vùng
củ yên và đưa ra phân độ (4 độ) dựa trên kích thước của u. Độ I, II là u còn
nhỏ chưa gây ra triệu chứng; Độ III, IV là những u lớn có gây triệu chứng về
thị lực. Với cách phân độ này không chỉ ra được vị trí và nguồn gốc u nên gây
lẫn lộn u tuyến yên, u sọ hầu, cordoma.v.v… với u màng não. Kết quả sau mổ
chỉ có 10 bệnh nhân sống sót với 5 bệnh nhân có cải thiện về thị lực [33].
Sau những nghiên cứu đầu tiên đã có rất nhiều các nghiên cứu và báo
cáo về các loại u vùng hố yên và trên yên nhưng những nghiên cứu về u màng
4
não vùng củ yên thì không nhiều vì tần suất hiếm và mức độ phức tạp của
phẫu thuật lấy u.
Fahlbusch R. ở Erlangen-Germany đã báo cáo 47 ca UMNVCY được
phẫu thuật từ 1983 đến 1998. Tất cả các bệnh nhân được mổ theo đường
Pterion một bên, lấy hết toàn bộ u với tỷ lệ biến chứng thấp. Không có ca nào
tử vong sau phẫu thuật. Tỷ lệ hồi phục thị lực là 80% [40].
Năm 2002 George L. Jallo ở New York – USA, đã báo cáo 23 ca
UMNVCY được phẫu thuật từ 1983 đến 2001. Tất cả các bệnh nhân đều được
mổ qua đường Pterion Transsylvian (Thóp bên trước + mở rãnh Sylvien). Với
20 bệnh nhân được lấy hết hoàn toàn u, 3 bệnh nhân lấy bán phần u. Thị lực
cải thiện 55%, không đổi 26%, xấu hơn ở 19%. 2 bệnh nhân lớn tuổi đã tử
vong sau mổ chiếm tỷ lệ 8,7% [52].
Tháng 2/2002 Atul Goel ở Bombay-India đã báo cáo 70 ca được phẫu
thuật trong thời gian 10 năm từ 1991 đến 2001. Các bệnh nhân được tính
điểm dựa trên lâm sàng và hình ảnh học để chia ra làm 3 độ tương ứng với
từng mức điểm. Mở sọ trán một bên được thực hiện ở 63 bệnh nhân, mở trán
hai bên ở 4 bệnh nhân và Pterion ở 3 bệnh nhân. Lấy toàn bộ u đạt được ở 59
bệnh nhân, lấy bán phần u ở 11 bệnh nhân. Thị lực được cải thiện ở 44 ca,
không cải thiện 10 ca và xấu hơn ở 7 bệnh nhân. Động mạch não trước và
thông trước bị rách trong 4 ca, sự cố gắng khâu lại mạch máu chỉ thành công
ở 1 ca. 4 bệnh nhân bị chẩn đoán nhầm là u tuyến yên và mổ qua xoang
bướm, 3 ca sau đó đã được mổ lại bằng đường qua sọ. 2 bệnh nhân đã tử vong
sau mổ, 1 do viêm màng não và 1 tổn thương động mạch não trước trong
mổ [48].
Tháng 7/2003, tại Hội nghị Ngoại thần kinh Châu Á tổ chức tại Tokyo
(Nhật Bản), Võ Văn Nho đã báo cáo phẫu thuật 26 trường hợp UMNVCY
trong thời gian 6 năm (1997 – 2003). 26 ca trong báo cáo đã được mổ qua
5
đường trán một bên và tất cả đều được lấy hết u. Một trường hợp đã phải mổ
lần hai mới lấy được toàn bộ u do u xâm lấn nhiều vào hố yên và xoang hang.
Không có biến chứng trong, sau mổ và không có trường hợp nào tử vong [77].
Đây là báo cáo đầu tiên của tác giả Việt Nam ở nước ngoài về tình hình
phẫu thuật loại u này tại thành phố Hồ Chí Minh - Việt Nam.
1.1.2. Trong nước
Năm 1975 Lê Xuân Trung và Nguyễn Như Bằng nhận xét 408 trường
hợp u trong sọ được phẫu thuật thì UMN chiếm 17% [17].
Năm 1996, Phạm Ngọc Hoa hồi cứu 66 trường hợp UMN nội sọ tại
bệnh viện Chợ Rẫy năm 1995, nhận xét về các dấu hiệu trên CT scan. Trên
phim không cản quang, u thường có đậm độ cao, tương đối đồng nhất so với
nhu mô não (86%). Sau tiêm cản quang, u bắt cản quang mạnh, đồng nhất.
Một số u lớn bắt cản quang không đồng nhất. Bào mòn xương hay gặp nhiều
hơn tăng sinh xương [3].
Từ 7/1996 – 12/1998 Nguyễn Phong và cộng sự hồi cứu trên 679 bệnh
nhân u não được phẫu thuật có 129 trường hợp u màng não chiếm tỷ lệ 19%.
Trong nghiên cứu này UMNVCY chiếm tỷ lệ 4,6% [9].
Từ 7/1996 –12/2000 Nguyễn Phong và cộng sự hồi cứu 2830 trường
hợp u não trong đó u màng não chiếm 22,3%. Các dấu hiệu và các triệu chứng
lâm sàng của các bệnh nhân này khá nhiều và nặng nề, đa số bệnh nhân nhập
viện muộn. Tỷ lệ UMN ác tính khá cao [9], [10].
Từ 8/2001 – 8/2002: Võ Văn Nho và cộng sự đã phẫu thuật 24 trường
hợp u màng não khổng lồ trong sọ, ghi nhận có 03 trường hợp u màng não
vùng củ yên có kích thước u lớn hơn 4 cm, các trường hợp này u đã lớn chèn
ép vào dây thị và giao thoa thị giác làm giảm thị lực cả hai mắt, một ca trong
đó đã mù hoàn toàn một mắt [6].
6
Năm 2002 Phạm Ngọc Hoa nghiên cứu 189 trường hợp UMN trong sọ,
trong đó có 13% ở vùng củ yên. Với UMN vùng củ yên, phù quanh u thấy
trên chụp cắt lớp điện toán chiếm tỷ lệ thấp nhất so với các vị trí khác [4].
Tháng 11 năm 2003, Võ Văn Nho đã báo cáo tổng kết 35 ca UMNVCY
được phẫu thuật tại khoa Ngoại thần kinh BV Chợ Rẫy từ 1997 đến 2003. Tất
cả các bệnh nhân đều được mổ qua đường dưới trán một bên (bên phải), lấy
toàn bộ u một lần ở 34 ca, một ca phải mổ lần hai mới lấy được hết hoàn toàn
u. Kết quả tốt trong tất cả các bệnh nhân [7].
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy đã có nhiều tác giả báo cáo về
phẫu thuật UMNVCY ở các nước với những số liệu, kinh nghiệm và kết quả
khác nhau. Riêng ở trong nước chỉ có một nghiên cứu năm 2003 của Võ Văn
Nho, phẫu thuật 35 bệnh nhân UMNVCY tại bệnh viện Chợ Rẫy được công
bố còn các nghiên cứu khác chỉ đánh giá chung về các loại u màng não, nên
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu kỹ và đầy đủ hơn về UMNVCY nhằm đóng
góp thêm kiến thức trong chẩn đoán và điều trị để các đồng nghiệp hiểu rõ và
chính xác hơn về loại bệnh này.
1.2. ĐẶC ĐIỂM VỀ GIẢI PHẪU LIÊN QUAN U MÀNG NÃO VÙNG
CỦ YÊN
1.2.1. Giải phẫu màng não
Não bộ được ngăn cách với thành xương bằng các màng não. Có tất cả
3 màng xuất phát từ trung bì: màng cứng, màng nhện và màng mềm:
- Màng cứng: dai, không đàn hồi, dày 0,3 – 1 mm. Mặt ngoài xù xì,
dính vào màng xương ở vài chỗ như quanh lỗ chẩm và hộp sọ, có nhiều mạch
máu. Mặt trong láng bao lấy các xoang tĩnh mạch của hộp sọ và được nội mạc
bao phủ.
7
- Màng nhện: mỏng, trong suốt gồm hai lá áp sát vào nhau tạo nên một
khoang ảo. Giữa màng nhện và màng mềm có một khoang gọi là khoang dưới
nhện chứa đầy dịch não tủy. Ngoài ra còn có các hạt màng nhện có chức năng
hấp thu dịch não tủy.
- Màng mềm: mô liên kết lỏng lẻo chứa nhiều vi mạch để nuôi dưỡng
não bộ, còn gọi là màng nuôi. Cùng với các tế bào thần kinh đệm có vai trò
nâng đỡ và nuôi dưỡng các neuron, màng mềm tạo nên màng nuôi đệm. Màng
nuôi đệm là cơ sở vật chất của hàng rào mạch máu và dịch não tủy [12], [51].
Màng cứng vùng trên yên có những đặc điểm khác với màng cứng của
các vùng khác là không bằng phẳng, có nhiều lỗ thủng thông ra ngoài là
đường đi vào và đi ra của các động mạch, dây thần kinh và cuống tuyến yên.
Vì lồi lõm không bằng phẳng, có nhiều lỗ và có hệ tĩnh mạch quanh yên chạy
ở giữa hai lớp nên cắt bỏ màng cứng dính vào u vùng này là rất khó.
1.2.2. Giải phẫu sàn sọ trước
* Xương bướm:
Nhìn từ phía trước xương bướm giống hình con bướm nằm giữa nền sọ
với các cánh dang ra (Hình 1.1). Phía trước tiếp khớp với xương trán, xương
sàng, phía sau tiếp khớp với xương chẩm và hai bên tiếp khớp với xương thái
dương. Xương bướm gồm có: thân bướm, cánh bướm và mỏm chân bướm [13].
Thân bướm: hình hộp vuông, gồm 6 mặt.
Mặt trên thân bướm từ trước ra sau có 3 phần, mỗi phần liên quan với
một tầng sọ.
- Phía trước có mào bướm để tiếp khớp với mào gà xương sàng và với
mảnh sàng. Ở sau có rãnh giao thoa thị giác. Hai đầu rãnh có lỗ thị giác để
động mạch mắt và thần kinh thị giác đi qua. Sau rãnh là vùng củ yên [13].
Ở giữa là hố yên (Fossa hypophysialis) có tuyến yên nằm trong. Sau hố
yên là lưng yên.
8
- Sau hố tuyến yên là yên bướm (Sella turcica), ở bốn góc có bốn mỏm là:
+ 2 mỏm yên bướm giữa
+ 2 mỏm yên bướm sau
- Phía sau mặt trên thân bướm tiếp khớp với mỏm nền mặt dốc xương
chẩm.
Hình 1.1. Xương bướm nhìn trên xuống
* Nguồn: Atlas giải phẫu người (1997) [13]
Xương bướm có nhiều liên quan với thần kinh: bó khứu giác, tiểu thùy
thẳng và phần sau của thùy trán nằm trên phần thẳng của cánh bé xương
bướm, cầu não và não giữa nằm ngay sau phần mặt dốc, giao thoa thị giác
nằm sau rãnh giao thoa, và các dây thần kinh sọ từ dây II đến dây VI đều có
mối liên quan mật thiết với xương bướm. Nhiều lỗ ra khỏi sọ nằm trên xương
bướm: ống thị giác, khe hốc mắt trên, lỗ tròn, lỗ bầu dục…
Xương bướm còn liên quan với các động mạch và tĩnh mạch quan
trọng, hai bên thân bướm có rãnh động mạch cảnh, phía sau là động mạch
thân nền, phía trên là đa giác Willis, và động mạch não giữa chạy song song
với cánh bé. Xoang hang nằm ở hai bên thân.
Nhìn từ trên xuống củ yên (Tuberculum sella) nằm ở trung tâm của
thân bướm được bao bọc phía trước là phần giữa của hai mấu giường trước,
9
trước bên trên là lỗ thị giác, trước bên dưới là lỗ động mạch cảnh, 2 bên là
dây thị và động mạch cảnh, trên là 2 động mạch não trước, sau trên là giao
thoa thị giác, sau dưới là cuống tuyến yên, mặt dưới là hố yên và tuyến yên.
Vùng trên yên và não thất ba liên quan mật thiết với củ yên và có các
cấu trúc thần kinh, mạch máu quan trọng, mỏng mảnh, tinh tế. Đây là khu vực
quan trọng trong việc hoạch định kế hoạch mổ các khối u củ yên và vùng trên
yên [13], [88], [98].
Do đặc điểm vị trí giải phẫu của vùng củ yên nên u thường phát triển
tới mức khá lớn gây chèn ép dây II lúc đó mới có triệu chứng. Vì xung quanh
u là nhiều mạch máu thần kinh quan trọng nên đây là một loại u khó lấy triệt
để và cần phẫu thuật viên có kinh nghiệm. Cũng vì vị trí giải phẫu của u nên
không thể cắt hết phần màng cứng gốc bám của u và phần xương thâm nhiễm
u theo như phân độ (độ I) của Simpson mà chỉ có thể đốt kỹ phần màng cứng
gốc bám của u (độ II) để hạn chế u tái phát về sau.
1.3. CÁC DÂY THẦN KINH LIÊN QUAN U MÀNG NÃO VÙNG CỦ YÊN
1.3.1. Dây thần kinh khứu giác
Dây thần kinh khứu giác (dây I) xuất phát từ các tế bào khứu giác hai cực
nằm ở vùng khứu lớp niêm mạc mũi. Thân của các tế bào này có hai loại nhánh:
- Các sợi ngoại biên ngắn nằm ngay trong vùng niêm mạc khứu để thụ
cảm khứu giác.
- Các sợi trung ương chạy hướng lên trên, đan chằng chịt vào nhau tạo
thành một đám rối thần kinh dưới niêm mạc khứu. Từ đám rối này các sợi tập
trung lại khoảng 20 sợi nhỏ mỗi bên thành dây thần kinh khứu. Dây có màu
xám vì không có Myelin, chui qua các lỗ của mảnh sàng để đến tận hết ở mặt
trong dưới của hành khứu.
10
Dây khứu giác không có vỏ, nhỏ, mảnh nên rất dễ bị đứt trong quá
trình vén não cực trán để vào lấy u. Bảo vệ được dây 1 cũng là một lý do để
phẫu thuật viên lựa chọn đường mổ.
1.3.2. Dây thần kinh thị giác
Dây thần kinh thị giác (dây II) từ các tế bào nón và que ở võng mạc tập
trung lại thành hai dây thị, dây lớn nhất trong các dây thần kinh sọ. Từ sau
nhãn cầu dây đi qua lớp mỡ ở phần sau ổ mắt, chui vào ống thị giác ra ở lỗ
thị, ở trên yên hai dây phải trái bắt chéo nhau tạo thành giao thoa thị giác
(Chiasma opticus) rồi lại tách ra làm hai dải thị (Tractus opticus) chạy vòng
quanh cuống đại não để đến thể gối ngoài và lồi não trên.
Mối liên quan giữa giao thoa và vùng trên yên ảnh hưởng tới các đường
mổ qua trán. Vị trí của giao thoa với vùng yên được chia ra làm 3 loại:
Hình 1.2. Các loại cố định của giao thoa thị giác
* Nguồn: Rhoton A.L (2002) [89]
- Loại bình thường; giao thoa nằm trên hoành yên.
- Loại cố định trước; giao thoa nằm trên củ yên.
- Loại cố định sau; giao thoa nằm trên lưng yên.
Khoảng 70% càc trường hợp giao thoa là loại bình thường, loại cố định
trước và sau chiếm khoảng 15% mỗi loại [12].
Dây I
Dây II
Giao
thoa
ĐM não
giữa
11
Vì u xuất phát từ củ yên nên khi lớn đa số u đẩy dây thị sang bên và
chéo thị ra sau xuống dưới và làm căng, giãn, gập góc dây thị, giãn giao thoa
rồi mới bao bọc dần dây thị, đó là nguyên nhân gây ra bán manh và giảm thị
lực 1 hoặc 2 mắt [88]. Giảm thị lực là triệu chứng chính và quan trọng để
giúp chẩn đoán và cũng là mục đích quan trọng hàng đầu của việc điều trị
phẫu thuật.
Một số trường hợp u bao bọc toàn bộ dây II thì u loại này lại thường
mềm, dễ bóc tách và có thể lấy u ra khỏi dây II dễ dàng.
Dây II và chéo thị được nuôi dưỡng bởi các nhánh ĐM xuyên nhỏ
thường dính với màng nhện nên trong quá trình bóc tách u khỏi dây II và
chéo thị cần chú ý bảo tồn tối đa các mạch xuyên hạn chế đốt màng nhện
quanh dây II để giúp thị lực hồi phục tốt hơn sau mổ.
1.4. LIÊN QUAN VỚI ĐỘNG MẠCH
Vùng trên yên có nhiều liên quan với ĐM vì khu vực này có: các ĐM
cảnh trong, ĐM mắt, ĐM não trước, ĐM não giữa, ĐM thông trước, ĐM
thông sau và các nhánh của chúng cùng với hầu hết các thành phần của đa
giác Willis. Tất cả các thành phần kể trên đều có thể bị đẩy giãn ra do khối u
vùng củ yên phát triển lên trên yên gây nên [12], [89].
1.4.1. Động mạch cảnh trong
Động mạch cảnh trong thoát ra khỏi xoang hang dọc theo mặt trong
mỏm yên, khi vào vùng này nó chạy ra sau, lên trên và ra ngoài. ĐM cảnh
trong cho các nhánh xuyên tới dây thị giác, giao thoa, dải thị giác và sàn não
thất ba. Các nhánh xuyên này có thể là trở ngại cho đường mổ đi qua khoảng
tam giác giữa ĐM cảnh dây thị giác và ĐM não trước. ĐM cảnh trong còn
cho nhánh là ĐM yên trên, nó chạy vào trong, dưới sàn não thất ba để hợp với
ĐM cùng bên đối diện để tạo nên vòng tròn quanh phễu [12].