Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận văn thạc sĩ văn học việt nam thế giới phi lí trong tiểu thuyết “thiên thần sám hối” và “đi tìm
PREMIUM
Số trang
127
Kích thước
1.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1136

Luận văn thạc sĩ văn học việt nam thế giới phi lí trong tiểu thuyết “thiên thần sám hối” và “đi tìm

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------

ĐỖ THANH HUYỀN

THẾ GIỚI PHI LÍ TRONG TIỂU THUYẾT

“ĐI TÌM NHÂN VẬT” VÀ “THIÊN THẦN SÁM HỐI”

CỦA TẠ DUY ANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------

ĐỖ THANH HUYỀN

THẾ GIỚI PHI LÍ TRONG TIỂU THUYẾT

“ĐI TÌM NHÂN VẬT” VÀ “THIÊN THẦN SÁM HỐI”

CỦA TẠ DUY ANH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trƣơng Đăng Dung

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, do

PGS.TS Trƣơng Đăng Dung trực tiếp hướng dẫn. Kết quả thu được là hoàn toàn

trung thực và chưa được công bố trong công trình nào khác.

Hà Nội, tháng 12 năm 2015

Tác giả luận văn

Đỗ Thanh Huyền

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự động

viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và bày tỏ lòng biết ơn sâu

sắc tới PGS. TS Trương Đăng Dung, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ

bảo tận tình, động viên tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Khoa học xã

hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Phòng Đào tạo Sau đại học,

Ban Chủ nhiệm khoa Văn học, Tổ bộ môn Văn học Việt Nam đã nhiệt tình

giảng dạy,tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, động viên chúng tôi trong quá

trình học tập, nghiên cứu.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người thân đã luôn

bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên

cứu của mình.

Luận văn được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu

sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía thầy cô và các

bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, tháng 12 năm 2015

Tác giả luận văn

Đỗ Thanh Huyền

1

MỤC LỤC

Trang

MỤC LỤC......................................................................................................... 1

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... 2

PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 14

Chương 1: KHÁI LƯỢC VỀ VẤN ĐỀ PHI LÍ TRONG TRIẾT HỌC

VÀ VĂN HỌC................................................................................................ 15

1.1. Phi lí trong triết học......................................................................... 15

1.2. Phi lí trong văn học.......................................................................... 18

1.3. Vài nét về yếu tố phi lí trong văn học Việt Nam sau đổi mới ...... 22

Chương 2: CON NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI PHI LÍ QUA TIỂU THUYẾT

“ĐI TÌM NHÂN VẬT” VÀ “THIÊN THẦN SÁM HỐI” CỦA TẠ DUY ANH.33

2.1. Con ngƣời lƣu đày ........................................................................... 33

2.2. Con ngƣời hoài nghi ........................................................................ 45

2.3. Con ngƣời dấn thân ......................................................................... 57

2.4. Con ngƣời cô đơn............................................................................. 64

Chương 3: NGHỆ THUẬT MÔ TẢ CÁI PHI LÍ TRONG TIỂU THUYẾT “ĐI

TÌM NHÂN VẬT” VÀ “THIÊN THẦN SÁM HỐI” CỦA TẠ DUY ANH.........75

3.1. Thời gian phi lí ................................................................................. 75

3.2. Không gian phi lí.............................................................................. 84

3.3. Nhân vật vắng mặt và nhân vật kí hiệu......................................... 89

3.4. Ngôn ngữ, giọng điệu nhiều sắc thái .............................................. 94

KẾT LUẬN................................................................................................... 111

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 116

2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Ở phương Tây, chủ nghĩa hiện sinh đã xuất hiện như một trào lưu tư tưởng

chính trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lí của triết học thời kì hiện đại. Từ

trung tâm của chủ nghĩa hiện sinh là vấn đề nhân vị, các triết gia đã phát triển thành

những phạm trù cụ thể như: phi lí, buồn nôn, hư vô, tự do, lo âu, tha nhân hay nổi

loạn, dấn thân, địa ngục... Jean-Paul Sartre cùng một số các tác giả khác ở Paris sau

giải phóng đã có những tác phẩm thành công, đáng ghi nhận. Các tác phẩm của họ

chú trọng vào các chủ đề như "nỗi sợ, sự buồn chán, sự lạc lõng trong xã hội, sự phi

lí, tự do, cam kết, và hư vô" như là nền tảng của sự hiện sinh con người. Con người

tự do lựa chọn cách sống, thái độ sống của mình, nghĩa là con người có ý thức để

trở thành hiện sinh; và do đó mà con người luôn đau khổ, dằn vặt, lo âu trong cuộc

kiếm tìm và lựa chọn tự do.

Trong số các phạm trù đó, vấn đề phi lí là một trong những vấn đề cơ bản, dần

dần trở thành khái niệm chủ chốt của chủ nghĩa hiện sinh. “Vấn đề phi lí đã xuất

hiện từ F.Rabelai đến các nhà văn lãng mạn như L.Caroll, J.Wift…và một số nhà

văn hiện đại khác như là một đối tượng của sáng tác văn học. Nhiều người gọi là

biện pháp huyễn tưởng phi lí” [24, tr. 222]. Họ đã xây nên một thế giới huyễn tưởng

riêng biệt với những nhân vật hài kịch làm đối tượng châm biếm và hài hước, qua

đó rút ra bài học cho thế giới thực tại. Vào những năm đầu của thế kỉ XX, ở châu

Âu rộ lên phong trào văn học phi lí với các tên tuổi nổi tiếng trong lịch sử văn học

toàn nhân loại như: Fr.Kafka, Alb.Camus, Eug.Ionesco, S.Beckett… Cao trào đó

diễn ra vào khoảng giữa thế kỉ XX. Về cơn bản, phong trào văn học phi lí đã chấm

dứt sự tồn tại vào cuối những năm 60, nhưng dư âm của nó thì vẫn còn kéo dài cho

đến tận ngày nay. Không thể phủ nhận một điều rằng, văn học phi lí là một mảng

văn học có giá trị. Và có thể nói rằng, tìm hiểu về văn học phi lí là tìm hiểu về một

đóng góp đáng ghi nhận cho lịch sử văn học nhân loại.

1.2. Tại Việt Nam, văn học phương Tây đã in dấu ấn lên nền văn học từ khá lâu và

góp phần không nhỏ vào sự phát triển của văn học nước nhà. Có thể dễ dàng nhận

thấy rằng mọi nỗ lực đổi mới, cách tân của tiểu thuyết chủ yếu là học theo “lối viết”

3

của phương Tây nói chung, văn học hiện sinh nói riêng. Và gần đây người ta

thường nói một cách ngắn gọn là viết theo lối “hậu hiện đại”.

Trên văn đàn tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đã xuất hiện khá nhiều tên tuổi

tài năng với một lối viết phá cách, mang đậm dấu ấn của “hậu hiện đại” phương Tây

như: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Bảo Ninh, Dương

Hướng, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh… Trong số đó, nhà văn Tạ Duy Anh là một cây

bút khá nổi với nhiều tập truyện dài và tiểu thuyết, hàng chục truyện ngắn, truyện

thiếu nhi, hàng trăm bài tản văn trên các báo. Có thể nói, ông là một trong số ít

những nhà văn Việt Nam có những tác phẩm mang đậm tính phi lí, chịu ảnh hưởng

nhiều của văn học phương Tây. Vấn đề này được thể hiện rõ nét nhất qua hai tập

tiểu thuyết nổi tiếng, đánh dấu tên tuổi của ông là Đi tìm nhân vật và Thiên thần

sám hối. Với một lối viết mới lạ, phá cách, ông đã góp phần vào việc cách tân và

hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nghiên cứu đề tài Thế giới phi lí trong

tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật” và “Thiên thần sám hối” của Tạ Duy Anh, người viết

mong muốn được tìm hiểu, đào sâu một vấn đề từng là thành tựu của văn học thế

giới. Qua đó sẽ thấy được những ảnh hưởng của văn học phương Tây đến Việt Nam

như thế nào, nó biến đổi ra sao, có thành công và hạn chế gì. Từ việc nghiên cứu

một số tác phẩm của một tác giả đại diện, chúng ta sẽ có những cái nhìn đúng đắn

hơn, sâu sắc hơn về toàn cảnh của một giai đoạn văn học.

1.3. Bên cạnh đó, nghiên cứu đề tài Thế giới phi lí trong tiểu thuyết “Đi tìm nhân

vật” và “Thiên thần sám hối”của Tạ Duy Anh là việc làm có ý nghĩa thiết thực. Qua

đề tài này, tác giả luận văn sẽ có cái nhìn khách quan và khoa học về những đóng

góp của Tạ Duy Anh nói riêng và các nhà văn nói chung trong tiến trình phát triển

của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Những triết lí, quan niệm mà tác giả gửi gắm

trong tác phẩm cũng là những bài học quý giá, thiết thực về cuộc sống của con

người nói chung. Ta bắt gặp đâu đó một số nhân vật, sự kiện trong tác phẩm như

hiện hữu ngay ở ngoài đời thực. Những vấn đề ông đề cập đến trong tác phẩm luôn

có giá trị ở mọi thời đại.

4

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Văn học phi lí là một thành tựu của thế giới và đã được khá nhiều nhà nghiên

cứu, phê bình quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, việc đi sâu nghiên cứu vấn đề phi lí

trong các tác phẩm văn học Việt Nam thì chưa có nhiều công trình. Đặc biệt, các bải

phê bình, nghiên cứu về Tạ Duy Anh rất ít, chủ yếu là trên các báo mạng. Qua khảo

sát bước đầu, chúng tôi thấy các ý kiến mới dừng lại trên tinh thần nghiên cứu tổng

quan hoặc bàn luận tản mạn trong một vài tác phẩm đơn lẻ. Vì vậy, người viết đã

chọn lọc và tiếp thu những ý kiến được xem là xác đáng, cụ thể nhất và có tính gợi

mở để tác giả luận văn triển khai đề tài nghiên cứu.

2.1. Những nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh, văn học phi lí nói chung

Chủ nghĩa hiện sinh khởi nguồn từ phương Tây và người được coi là thủy tổ

của nó là S. Kierkegaard (Đan Mạch, 1813-1855). Xuất phát điểm của Kierkegaard

là cá nhân cụ thể, quan tâm nhiều đến niềm tin và đam mê. Ảnh hưởng của

Kierkegaard khá lớn đối với các triết gia hàng đầu của triết học hiện sinh, đến nỗi

người ta cho rằng Hữu thể và Hư vô của J. Sartre ngoài việc có sử dụng chút ít vật

liệu từ Hữu thể và Thời gian của Heidegger thì triết luận này của Sartre còn được

“gợi hứng” khá nhiều từ những quan điểm của S. Kierkegaard. Có ý kiến cho rằng

quan niệm văn chương của Kafka có chịu ảnh hưởng của Kierkegaard khi khẳng

định bản chất của sự sinh tồn chính là nỗi bất an. Một số tác phẩm có giá trị của ông

như: The Concept of Irony with Continual Reference to Socrates; Either – Or, The

Sickness Unto Death; The Book on Adler …

F. Nietzche (Đức, 1884-1900) cũng được các nhà nghiên cứu coi là một

trong những vị tiền bối của triết học hiện sinh. Ông và Kierkergaard có ý kiến gần

nhau đó là đều coi con người là một thế giới huyền bí, sâu thẳm. Lo âu là biểu hiện

của cái phi lí của cuộc sống. Tuy nhiên, Kierkegaard với quan điểm luôn giữ vững

niềm tin nơi Thiên chúa. Còn Nietzche bắt nguồn từ những tư tưởng đi ngược với

truyền thống Hy Lạp do Socrater, Platon và Aristotle để lại.

Đầu thế kỉ XX, triết học hiện sinh nổi lên một trường phái đó là “hiện tượng

học” của E.Husserl. Có thể nói, tư tưởng của Kierkergaard về con người kết hợp với

hiện tượng học của E.Husserl như một phương pháp luận. Suốt nửa đầu thế kỉ XX,

5

M. Heidegger, Jaspers, G. Marcel phát triển nó lên thành những lí thuyết phức tạp,

hoàn chỉnh hơn. Đặc biệt là công trình Hữu thể và thời gian ra đời năm 1927 có thể

coi là tác phẩm quan trọng nhất của Heidegger. Ông quan tâm đến tính thời gian vì

thời gian làm nên ý nghĩa của tồn tại, cho thấy sự hiện hữu của con người. Có thể

thấy rằng: Heidegger còn có đóng góp lớn cho triết học ngôn ngữ thế giới khi khám

phá ra những bản chất mới của ngôn ngữ. Trong công trình Trên đường đến với

ngôn ngữ, ông gọi “ngôn ngữ là ngôi nhà hữu thể”.

Đến giữa thế kỉ XX, J.P. Sartre xuất hiện với tác phẩm Buồn nôn năm 1938

và rất nhiều tác phẩm khác về hiện sinh đã gây chấn động trong xã hội. Từ đây, triết

học hiện sinh đã trở thành một trào lưu tư tưởng chính thống, trở thành lối sống của

một số thế hệ thanh niên. Quan điểm triết học (hiện sinh vô thần) của Sartre được

hình thành trong quá trình đấu tranh chống “chủ nghĩa duy tâm đại học” như là một

thứ triết học tách rời đời sống. Tuy nhiên, sự tác động quyết định đến tư tưởng triết

học của ông là hiện tượng học của E. Husserl và bản thể học của M. Heidegger.

Năm 1943 ra đời tác phẩm triết học cơ bản nhất của Sartre, Hữu thể và vô thể. Sau

đó là những tác phẩm khác nhau như Tưởng tượng (1940), Chủ nghĩa hiện sinh là

chủ nghĩa nhân đạo (1946), Situations (10 tập, 1947-1976), Phê bình lí tính biện

chứng (1960), v.v... Phổ biến hơn cả là văn xuôi triết lí của ông như Buồn nôn

(1938), Những con đường của tự do (bộ ba, 1945-1949), các vở kịch Ruồi (1943),

Chết không mồ (1946), Gái điếm mà lễ độ (1946), Những bàn tay bẩn (1948), Quỷ

sứ và thượng đế (1951)... Về phương pháp phê bình hiện sinh, Sartre cho rằng để

phát hiện ra trong tác phẩm cái được mặc khải bằng cuộc phiêu lưu đặc biệt của một

con người bị thúc đẩy bởi lo âu của mình mà trở thành nhà văn, ông cố gắng sát

nhập chủ nghĩa Marx và phân tâm học thành một thứ nhân loại học có thể giải thích

con người trong tính toàn vẹn của nó.

Có thể thấy rằng, chủ nghĩa hiện sinh đã được khá nhiều nhà nghiên cứu

quan tâm trên thế giới. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi xin đi

sâu vào một số công trình về chủ nghĩa hiện sinh của một số tác giả tại Việt Nam.

Một trong những tác giả đầu tiên nghiên cứu về vấn đề triết học hiện sinh ở

Việt Nam đó chính là Trần Thái Đỉnh. Ông đã có những nghiên cứu tỉ mỉ, dễ hiểu

6

và khá đầy đủ trong cuốn Triết học hiện sinh. Ở cuốn sách này, tác giả đã tỏ rõ quan

điểm của mình là: "Triết học hiện sinh có thể nguy hiểm và xấu nữa. Nhưng nguy

hiểm ở chỗ nào và xấu ở chỗ nào? Bao lâu chúng ta chưa nói một cách đúng đắn và

đích xác, thanh thiếu niên vẫn chưa nghe lời chúng ta, và mối nguy hiểm vẫn cứ còn

mãi. (...) thuyết hiện sinh có chứa đựng rất nhiều mầm mống tốt trộn lẫn với mầm

mống xấu: chính vì những vẻ tốt đẹp kia đã quyến rũ thanh thiếu niên, nhưng vì họ

chưa đủ tinh tường để phân biệt, cho nên họ nuốt luôn cả những chất độc pha trộn

nơi đó" [39, tr.15- 16]. Bởi vậy, Trần Thái Đỉnh chủ trương "phân biệt rõ ràng"

trong mọi sự khen chê, để triết hiện sinh được hiểu đúng, đánh giá đúng. Ông đã

làm rõ nguồn gốc của triết học hiện sinh và dừng lại ở sáu phạm trù hiện sinh chính

yếu là: buồn nôn, phóng thể, ưu tư, tự quyết, vươn lên, độc đáo.

- Ở phạm trù Buồn nôn, Trần Thái Đỉnh đã cho rằng “con người ta còn sống

như những sinh vật. Và sống như sinh vật là một buồn nôn cho triết gia hiện sinh đã

ý thức sâu xa về nhân vị con người” [39, tr. 36]. Ông cũng trích ra một đoạn trong

tác phẩm Buồn nôn của J.P.Sartre để làm rõ hơn phạm trù này: “Thôi tôi cứ làm như

này. An-ny là xong. Tôi cứ sống thừa ra. Ăn, ngủ. Ăn, ngủ. Sống từ từ êm êm như

những cây kia, như những vũng nước này, hoặc như cái ghế bọc vải đỏ của toa xe

lửa nọ” [39, tr. 21]

- Cuộc đời mỗi người đều mang vẻ tầm thường, buồn nôn, cuộc đời đó là

một phóng thể. Có nghĩa là con người hóa thành cái khác hành động, chỉ vì người ta

bảo mình làm hay nghĩ mình phải làm như thế. Trần Thái Đỉnh nghiên cứu và chia

ra hai loại là phóng thể duy tâm và phóng thể duy vật. Phóng thể duy tâm là con

người chỉ tưởng tượng và mơ ước, thụ động theo những mẫu người “lí tưởng”.

Phóng thể duy vật là con người hành động vô ý thức như một cái máy, chủ yếu sống

yên phận trong gia đình, trong nhóm, đoàn thể.

- Vì cuộc đời là một phóng thể nên cần thiết con người phải tỉnh ngộ , ý thức

về giá trị cao quý và nhân vị của mình. Do đó sinh ra ưu tư. “Ưu tư là trạng thái xao

xuyến, băn khoăn về tương lai chưa rõ” [39, tr. 42]. Đó là vẻ đặc sắc của một cuộc

hiện sinh đã tự ý thức rằng phải làm mọi cách để thoát ra, dứt ra khỏi cảnh sống

thừa, sống như những sinh vật đang tồn tại, những con người phóng thể.

7

- Với tinh thần không bao giờ cam chịu nằm lỳ một chỗ như sinh vật, con

người phải có ý thức vươn lên. Đề tài này phát sinh dưới ngòi bút của Kierkegaar

bởi “con người phải vươn lên khỏi gia đoạn hiếu mĩ để đạt tới giai đoạn đạo đức, rồi

lại phải vươn lên khỏi trình độ đạo đức để tiến lên giai đoạn tôn giáo”. Thánh

Augustin, một trong những cụ tổ triết hiện sinh viết “không tiến là lùi rồi”[39, tr.

47]. Vươn lên là lẽ sống của hiện sinh trung thực. Vươn lên là vượt lên chính mình,

chiến thắng chính mình.

- Trong quá trình vươn lên, con người sẽ trải qua rất nhiều thử thách và đòi

hỏi ta phải sáng suốt để quyết định, tự quyết mọi việc về cuộc đời mình. Tự quyết là

tự chọn mình, đi liền với ý niệm dấn thân. Có thể nói rằng tôi tự quyết là tôi “dám”

là tôi, tôi dám hành động theo sự lựa chọn của tôi. Chính trong hành động tự quyết,

triết hiện sinh chứng tỏ hiện sinh là giá trị sống, không phải giá trị tư tưởng. “Liều”

là một danh từ hiện sinh. Trong cái “liều” này thì tôi mới tỏ ra là chủ thể, không

phải là người hành động thiếu suy nghĩ.

- Tất cả hành động của chúng ta phải tự ta thực hiện, không thể ỷ lại vào bất

kì ai bởi mỗi người là một độc đáo. Theo Trần Thái Đỉnh, đây là điểm quan trọng

nhất, đặc sắc nhất trong số các phạm trù của triết học hiện sinh. “Khi nào tôi đảm

nhiệm lấy cô đơn đó là lúc tôi dám làm người có nhân vị độc đáo. Khi đó, tôi sẽ

dám phát huy tất cả những khả năng riêng biệt của tôi theo những đường lối chỉ tôi

có” [39, tr. 49].

Đánh giá về công trình này, Thụy Khuê đã nhận định: “Cuốn Triết học hiện

sinh của Trần Thái Đỉnh là một trong những cuốn sách mở cửa cho chúng ta vào

nền tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XX, vào sự tìm hiểu con người”.

Với những ý kiến phê phán khá gay gắt, tác giả Đỗ Đức Hiểu trong tác phẩm

Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa đã tỏ rõ những quan điểm đáng lưu ý trong

công trình này. Đúng như tên gọi của cuốn sách, ông đã chỉ ra những mặt tiêu cực

của chủ nghĩa hiện sinh khi nó du nhập vào đô thị miền Nam. Ông đã nhận định: “Ở

các thành thị miền Nam Việt Nam, những năm bị quân Mĩ xâm lược, văn học hiện

sinh chủ nghĩa đã được nhập cảng. Tuy nhiên, nội dung của nó là trụy lạc và chém

giết, là thuyết phi luân và đi lính ngụy; nội dung là rời bỏ tính siêu hình và tự biện,

8

tính trừu tượng và hư vô của văn học hiện sinh chủ nghĩa phương Tây”[50, tr. 19].

Ông chỉ ra rằng: “Tự do của nó không phải là thứ “bị tự do” phi lí và siêu nghiệm

như Xactơrơ hay Ionexco mà là tự do làm “gái bụi đời” và cầm súng Mĩ”[50, tr.19].

Nhà nghiên cứu tỏ rõ quan điểm phê phán của mình qua một loạt những dẫn chứng,

phân tích tỉ mỉ những mặt trái của chủ nghĩa hiện sinh khi “nhập cảng‟ vào miền

Nam Việt Nam.

Cùng quan điểm với tác giả Đỗ Đức Hiểu, tác giả Hoàng Trinh cũng đề cập

đến vấn đề này trong cuốn Phương Tây, văn học và con người. Tác giả cho rằng

những lối ăn chơi sa đọa nhất, từ Mĩ và các nước khác đưa sang đã làm “hư hỏng”

nhiều người và các thứ văn học nghệ thuật được văn hóa suy đồi phương Tây sau

đại chiến tiếp tục, cũng đã ngấm ngầm phát huy những ảnh hưởng tai hại của chúng

đối với đời sống tinh thần của một số người ở các đô thị. Nói về vấn đề phi lí, tác

giả nhận định: “Trong khi tìm hiểu thuyết phi lí, chúng ta đã thấy được phần nào

những nguyên nhân chính trị, xã hội và triết học của chủ nghĩa hoài nghi và tinh

thần hủy báng con người trong văn học hiện đại”[122, tr. 150]. Có thể thấy rằng, tác

giả Hoàng Trinh và Đỗ Đức Hiểu đã có những lời lẽ khá gay gắt, thể hiện cái nhìn

phiến diện về chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam. Bài nghiên cứu còn khá sơ lược và

được tiếp cận từ góc nhìn “phê phán triết học tư sản hiện đại”. Điều đó đã ảnh

hưởng phần nào đến kết quả nghiên cứu. Tựu chung lại, những hạn chế đó xuất phát

từ giới hạn lịch sử và thời đại.

Ngoài ra, chúng ta còn phải kể đến các nhà nghiên cứu như: Lê Tôn Nghiêm

với các cuốn sách: Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây phương; Đâu là

căn nguyên tư tưởng hay con đường triết lí từ Kant đến Heidegger; Những vấn đề

triết học hiện đại; Lê Thành Trị với chuyên khảo Hiện tượng luận về hiện sinh,

Triết học tổng quát; Nghiêm Xuân Hồng với Nguyên tử, hiện sinh và hư vô, Bùi

Giáng với Tư tưởng hiện đại ... Rồi các nhà nghiên cứu Tam Ích, Vũ Đình Lưu, Thế

Phong, Nguyễn Trọng văn, Đặng Phùng Quân, Huỳnh Phan Anh, Trần Xuân Kiêm,

Trần Công Tiến, Nguyễn Quốc Trụ... cũng đóng góp nhiều công trình, bài viết về

triết học hiện sinh, khiến cho triết học hiện sinh trở thành trào lưu tư tưởng được

quan tâm nhất trong giai đoạn này.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!