Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận văn thạc sĩ văn học vấn đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết việt nam từ sau 1986
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
3
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS
Nguyễn Thành Thi, người thầy đã hết lòng hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tất cả quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy
cho tôi trong suốt thời gian học Cao học, giúp cho tôi có thêm nhiều kiến thức
mới mẻ và bổ ích.
Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô của phòng Sau Đại học trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập ở nơi đây.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ và động viên để
tôi có thể vượt qua mọi khó khăn và hoàn thành luận văn này.
Học viên
Võ Thị Thu Loan
4
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................... 3
MỤC LỤC............................................................................................................................. 4
MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................ 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................................. 7
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................................... 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................. 10
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................. 11
6. Đóng góp của luận văn................................................................................................. 12
7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ VẤN ĐỀ Ý THỨC CÁ NHÂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI........................................................................................................................... 14
1.1. Khái niệm ý thức cá nhân .......................................................................................... 14
1.2. Thế mạnh của tiểu thuyết trong việc thể hiện ý thức cá nhân ..................................... 19
1.3. Vấn đề ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam hiện đại............................................ 23
1.3.1. Vai trò của ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam ............................................ 23
1.3.2. Hành trình của ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam ...................................... 32
1.4. Tiền đề cho sự trở lại ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ................ 35
1.4.1. Bối cảnh xã hội................................................................................................... 35
1.4.2. Sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây .............................................................. 40
CHƯƠNG 2: SỰ THỂ HIỆN Ý THỨC CÁ NHÂN QUA NỘI DUNG TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM SAU 1986.................................................................................................................. 46
2.1. Ý thức cá nhân về số phận con người ........................................................................ 46
2.2. Ý thức cá nhân về nhân cách con người..................................................................... 59
2.2.1. Sự tha hóa nhân cách con người......................................................................... 59
2.2.2. Sự hoàn thiện nhân cách con người .................................................................... 66
2.3. Ý thức cá nhân về đời sống tinh thần của con người .................................................. 70
2.3.1. Hướng về những khát vọng cá nhân.................................................................... 70
2.3.2. Lý giải và nhận thức đời sống tâm linh con người.............................................. 76
2.4. Ý thức cá nhân về việc nhìn lại cuộc chiến tranh đã qua ............................................ 82
2.5. Ý thức cá nhân về đời sống xã hội ............................................................................. 89
CHƯƠNG 3: SỰ THỂ HIỆN Ý THỨC CÁ NHÂN QUA NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT CỦA
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986............................................................................ 100
3.1. Khái niệm trần thuật............................................................................................... 100
3.2. Sự đổi mới hình tượng người trần thuật/ người kể chuyện ....................................... 101
3.2.1. Người trần thuật vô nhân xưng (trần thuật ở ngôi thứ ba)................................. 103
3.2.2. Người trần thuật với tư cách là một nhân vật (Trần thuật ở ngôi thứ nhất) ....... 104
5
3.3. Sự đổi mới về điểm nhìn trần thuật.......................................................................... 109
3.4. Sự đổi mới về giọng điệu trần thuật ........................................................................ 118
3.4.1. Khái quát về giọng điệu trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 ....................... 118
3.4.2. Các giọng điệu nổi bật trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986......................... 120
3.5. Sự đổi mới trong ngôn ngữ trần thuật ...................................................................... 132
3.5.1. Sự biến đổi kết cấu ngôn ngữ trần thuật............................................................ 132
3.5.2. Đặc diểm ngôn ngữ trần thuật .......................................................................... 139
KẾT LUẬN....................................................................................................................... 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 146
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học viết nước ta được bắt đầu vào khoảng thế kỷ X và đã có một bề
dày lịch sử hơn mười thế kỷ. Song vấn đề con người cá nhân thì chỉ thực sự
được các nhà văn quan tâm nhiều khi bước sang đầu thế kỷ XX, tức là khi văn
học Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của văn học phương Tây và bước vào tiến
trình hiện đại hóa. Đây cũng là thời kỳ mà ý thức cá nhân bắt đầu xuất hiện
trong các sáng tác của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Và từ đó đến nay, tuy văn
học Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn và nhiều biến động song vấn đề ý thức
cá nhân vẫn luôn là vấn đề được nhắc đến trong văn học. Mặc dù trong giai đoạn
1945-1975, giai đoạn mà văn học Việt Nam phải ưu tiên cho mục tiêu chiến đấu,
vấn đề này vì những yếu tố lịch sử khách quan đã phải tạm chìm xuống thế
nhưng khi đất nước hòa bình trở lại, con người chuyển sang cuộc sống mới thì
vấn đề ý thức cá nhân lại trở thành vấn đề quan trọng đối với các nhà văn của
chúng ta.
Bên cạnh đó, Văn học Việt Nam trong thế kỷ XX cũng chứng kiến sự
phát triển mạnh mẽ của nhiều thể loại trong đó có tiểu thuyết. Thể loại tiểu
thuyết đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại của nước nhà.
Tiểu thuyết Việt Nam đặc biệt phát triển vào những năm ba mươi của thế kỷ
trước và không ngừng phát triển cho đến hôm nay. Riêng tiểu thuyết Việt Nam
từ sau thời kỳ đổi mới 1986 đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về nội dung và hình
thức.
Tiểu thuyết là một thể loại lớn trong phương thức tự sự, có năng lực phản
ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động, tái hiện những bức tranh về đời
sống thông qua những tính cách và hoàn cảnh điển hình rộng rãi. Đồng thời nhờ
7
vào những đặc trưng về thể loại, tiểu thuyết cũng có điều kiện để thể hiện quan
niệm, tư tưởng của tác giả một cách rõ ràng và đầy đủ hơn những thể loại khác
trong văn học, trong đó có vấn đề ý thức cá nhân.
Đó là lý do chúng tôi lựa chọn đề tài này dù vấn đề ý thức cá nhân cũng
được thể hiện ở nhiều thể loại văn học như khác như thơ ca, truyện ngắn…
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy vấn đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết
Việt Nam từ sau 1986 được nghiên cứu qua các công trình, bài viết một cách
khái quát, tổng thể những đặc điểm chung của toàn bộ tiểu thuyết Việt Nam giai
đoạn này, trong đó vấn đề ý thức cá nhân của con người là một trong những nội
dung cụ thể được nghiên cứu. Bên cạnh đó là những bài viết, những công trình
khoa học nghiên cứu riêng về những tác giả lớn như Nguyễn Minh Châu, Lê
Lựu, Ma Văn Kháng... với ít nhiều nhắc đến vấn đề ý thức cá nhân. Ở đây,
trong khả năng của mình, chúng tôi xin được điểm qua một số công trình và bài
viết về văn xuôi Việt Nam sau 1986 của các nhà nghiên cứu phê bình, trong đó
có đề cập đến vấn đề ý thức cá nhân.
Nói về vấn đề ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam thời kỳ này, Phan
Cự Đệ, trong cuốn Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900-1945, có
nhận xét: “Văn học sau 1975 quan tâm hơn số phận cá nhân, hạnh phúc cá
nhân, sự hoàn thiện nhân cách xã hội chủ nghĩa. Các nhà văn không chỉ miêu tả
con người công dân mà còn chú ý đến con người xã hội con người tự nhiên…
Bây giờ trong điều kiện hòa bình, dưới ánh sáng của công cuộc đổi mới tư duy,
văn học nói nhiều hơn đến số phận cá nhân, hạnh phúc cá nhân, đến con người
xã hội và con người tự nhiên, đến tình yêu và mọi biểu hiện đa dạng phức tạp
của cuộc sống bình thường hằng ngày” [12, tr.704]. Ông cũng lý giải cho
nguyên nhân việc trở lại của vấn đề ý thức cá nhân trong văn học là do “Trong
8
xã hội Việt Nam trước đây cũng như trong ba mươi năm chiến tranh chống xâm
lược, chúng ta chưa có điều kiện giải quyết thật tốt mối quan hệ hài hòa giữa
cộng đồng và cá nhân” và ông cho rằng sự trở lại này cũng là “hợp với quy luật
phát triển hài hòa của văn học.” [12, tr.704].
Nguyễn Văn Long trong cuốn Văn học Việt Nam trong thời đại đổi
mới cũng đưa ra nhận xét về vấn đề này: Sang giai đoạn sau 1975, “Sự thức tỉnh
trở lại ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới, làm đổi
thay quan niệm về con người. Văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn
và sâu sắc hơn về con người mà nền tảng triết học và hạt nhân cơ bản của quan
niệm ấy là tư tưởng nhân bản. Con người trong văn học hôm nay được nhìn ở
nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người xã hội, con
người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với
thiên nhiên, với những người khác và với chính mình… Con người cũng được
văn học khám phá soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô
thức, đời sống tư tưởng tình cảm và đời sống tự nhiên bản năng, khát vọng cao
cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể cá biệt và con người trong tính
nhân loại phổ quát. Điều dễ nhận ra là trong phần lớn các tác phẩm văn học
thời kỳ này, con người không còn là nhất phiến, đơn trị mà luôn là con người đa
diện, đa trị, lưỡng phân, trong con người đan cài chen lẫn giao tranh bóng tối
và ánh sáng, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và quỷ sứ, cao cả và tầm
thường” [51, tr.5].
Trần Đình Sử trong bài viết mang tên Con người trong văn học Việt
Nam sau 1945 trong cuốn Một thời đại mới trong văn học, cũng đưa ra ý kiến
về vấn đề ý thức cá nhân trong thời kỳ này: Theo ông, văn học Việt Nam giai
đoạn này đã có “Sự tăng cường ý thức về nhân cách con người trong nhiều bình
diện khác nhau của nó cũng làm đổi thay tương quan với quá khứ. Trong các
9
thập kỷ trước con người trong văn học ta chủ yếu được thể hiện trong quan hệ
với quá khứ dân tộc… Nay mở rộng thêm quá khứ văn hóa, quá khứ đời tư… Ba
mươi năm trước con người trong văn học chủ yếu là đối tượng được ngợi ca
hoặc phê phán. Giờ đây ngoài tính chất đó, con người còn là đối tượng để
nghiên cứu phân tích nhiều mặt… Văn học ta có truyền thống miêu tả con người
với những phẩm chất chủ quan năng động của nó với những kết quả sản sinh từ
các phẩm chất đó. Nhà văn mở rộng cái nhìn sang tính khách quan của nhận
thức, ý định… suy nghĩ về các hiện tượng nghịch lý của tồn tại con người” [71,
tr.86].
Công trình nghiên cứu Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn
xuôi Việt Nam sau cách mạng tháng Tám” của hai tác giả Nguyễn Thị Bình
và Nguyễn Hải Hà là một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về vấn đề con
người cá nhân trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng đề cập đến vấn đề ý thức
cá nhân được biểu hiện qua nhiều phương diện: “Khảo sát trong sáng tác văn
xuôi thời kỳ sau 1975, thấy phương diện đời sống tâm linh con người được khám
phá ở một chiều sâu mà ngay văn xuôi trước cách mạng tháng Tám cũng chưa
đạt được. Nó làm phong phú cho quan niệm về con người và đưa lại những biến
đổi quan trọng về mặt thủ pháp biểu hiện… Sự bộc lộ đời sống tâm linh với toàn
bộ cảm giác về cái hữu hạn của kiếp người về niềm tin vào những thế lực siêu
hình, về cả khát khao tìm kiếm sự hòa đồng tuyệt đối của mỗi cá nhân… Nhu
cầu tình dục vốn gắn bó khăng khít với sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, với khao
khát tự do yêu đương mà văn thơ lãng mạn trước cách mạng đã từng đề cập
đến” [19, tr.293], “các tác giả Dương Thu Hương, Ma Văn Kháng, Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Khắc Trường , Dương Hướng, Bảo Ninh đều khẳng định nhu cầu
tình dục là nhu cầu chính đáng và tự nhiên của con người” [19, tr.295], “ Khám
phá nhu cầu tình dục vừa như một thôi thúc bản năng, vừa có khả năng kìm nén
10
lại vừa khơi gợi những ước ao hạnh phúc, nhiều tác giả đã giúp bạn đọc có
được cái nhìn độ lượng nhân ái hơn đối với con người… Nói chung, trên tổng
thể và nét chủ đạo, phương diện tự nhiên (bao gồm cả tiềm thức, vô thức, bản
năng, tâm linh, tình dục…) là một sự khám phá tích cực nhiều mới mẻ sâu sắc
của văn xuôi đương đại, bù đắp sự phiến diện và ít nhiều cứng nhắc trong quan
niệm về con người của văn xuôi giai đoạn trước, góp phần xác lập một quan
niệm mới phong phú, chân thật và đạt tới tính phổ quát, mang tầm triết học”
[19, tr.298].
Nhìn chung, các tác giả trên đều cho rằng văn học Việt Nam sau 1986 đã
có sự tiếp nối về vấn đề ý thức cá nhân trong văn học 1930-1945. Mặt khác các
tác giả trên cũng chỉ ra đặc trưng riêng của thời kỳ này: Đó là vấn đề ý thức cá
nhân được thể hiện qua việc khám phá con người ở nhiều bình diện khác nhau.
3. Mục đích nghiên cứu
- Vấn đề ý thức cá nhân không chỉ thuộc về tư tưởng của nhà văn mà nó còn chi
phối đến cả nội dung lẫn hình thức của thể loại tiểu thuyết. Nói cách khác, vấn
đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết đã có một tầm ảnh hưởng nhất định đến sự
đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
- Mặt khác, tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi cũng phần nào thấy được con đường
phát triển tư tưởng của nhà văn Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa nền văn
học nước nhà cũng như những tác động của các hệ tư tưởng triết học và văn học
phương Tây đến các nhà văn của chúng ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài Vấn đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986,
chúng tôi xin chỉ tập trung tìm hiểu nghiên cứu vào thể loại tiểu thuyết. Tuy
11
nhiên, do số lượng tiểu thuyết Việt Nam ở giai đoan này là khá lớn nên chúng
tôi chỉ tập trung vào một số tiểu thuyết nổi bật của giai đoạn trên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài, người viết sẽ sử dụng
những phương pháp chủ yếu như:
Phương pháp khảo sát văn bản giúp người viết tiếp cận trực tiếp và chính
xác tác phẩm, đồng thời giúp chúng tôi bám sát vào từng chi tiết trong tác
phẩm để làm dẫn chứng cho các luận điểm trong luận văn.
Phương pháp so sánh đối chiếu (đồng đại và lịch đại) để người viết có thể
tìm ra những diểm tương đồng và dị biệt khi thể hiện vấn đề ý thức cá
nhân giữa tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930-1945 và tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986 và giữa các nhà văn cùng thời với nhau.
Phương pháp loại hình để thấy rõ những đặc trưng của tiểu thuyết so với
các thể loại khác trong văn học, từ đó tìm ra những ưu thế của thể loại này
trong việc thể hiện vấn đề ý thức cá nhân.
Phương pháp hệ thống: đặt vấn đề ý thức cá nhân trong toàn bộ nền văn
học Việt Nam hiện đại để có một cái nhìn tổng thể và toàn diện hơn, đồng
thời thấy được từng bước phát triển cũng như vị trí quan trọng của nó.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: vấn đề ý thức cá nhân là một vấn đề
được nghiên cứu trong cả văn học, triết học và tâm lý học. Vì vậy,
phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu kỹ càng hơn về khái niệm ý
thức cá nhân.
12
6. Đóng góp của luận văn
Vấn đề ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986 hiện nay
vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Chính vì thế, chúng tôi hy
vọng đề tài có thể góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu về vấn đề này.
7. Cấu trúc luận văn
Nội dung chính của luận văn gồm có ba chương:
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ Ý THỨC CÁ NHÂN TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Trong chương này chúng tôi xin trình bày:
- Khái niệm ý thức cá nhân
- Thế mạnh của tiểu thuyết trong việc thể hiện ý thức cá nhân
- Vấn đề ý thức cá nhân trong văn học Việt Nam hiện đại
- Tiền đề cho sự trở lại ý thức cá nhân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
CHƯƠNG 2: SỰ THỂ HIỆN Ý THỨC CÁ NHÂN QUA NỘI DUNG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
Trong chương này chúng tôi xin trình bày:
- Ý thức cá nhân về số phận con người
- Ý thức cá nhân về nhân cách con người
- Ý thức cá nhân về đời sống tinh thần của con người
- Ý thức cá nhân về việc nhìn lại cuộc chiến tranh đã qua
- Ý thức cá nhân về đời sống xã hội
CHƯƠNG 3: SỰ THỂ HIỆN Ý THỨC CÁ NHÂN QUA NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
Trong chương này chúng tôi xin trình bày:
- Khái niệm trần thuật
- Sự đổi mới hình tượng người trần thuật/ người kể chuyện
13
- Sự đổi mới về điểm nhìn trần thuật
- Sự đổi mới về giọng điệu trần thuật
- Sự đổi mới trong ngôn ngữ trần thuật
14
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ VẤN ĐỀ Ý THỨC CÁ NHÂN
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. Khái niệm ý thức cá nhân
Trong tâm lý học, từ ý thức được dùng theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, khái niệm ý thức đồng nghĩa với tinh thần, tư tưởng. Còn theo
nghĩa hẹp, khái niệm ý thức được dùng để chỉ một cấp độ đặc biệt trong tâm lý
của con người.
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất, chỉ riêng con người mới có,
là khả năng con người hiểu được các tri thức mà con người đã tiếp thu được từ
trước. Nói một cách khác, ý thức là tri thức của tri thức, phản ánh của phản ánh.
Ý thức thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người về thế giới.
Như vậy, ý thức là toàn bộ những quan niệm, quan điểm của con người về
thế giới và mối quan hệ của con người trong thế giới. Ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Ý thức là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo
thế giới vật chất vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn. Nguồn gốc
của ý thức và đối tượng phản ánh của ý thức thuộc về thế giới khách quan, bị thế
giới khách quan quy định. Ý thức bao gồm tri thức, tình cảm và ý chí.
Ý thức giúp con người nhận thức cái bản chất, dự kiến trước kế hoạch
hành vi, kết quả của nó, làm cho hành vi mang tính chủ định. Ý thức không chỉ
nhận thức sâu sắc về thế giới mà còn bao hàm thái độ đối với nó. Ý thức thể hiện
năng lực điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người. Nói đến ý thức, chúng ta
không thể không đề cập đến khả năng tự ý thức: đó là khả năng tự nhận thức về
mình, tự xác định thái độ đối với bản thân, tự điều khiển, tự hoàn thiện mình.
Một nét độc đáo nữa của ý thức là tác động ý thức phản hồi trên chính
mình. Đây là một đặc tính riêng biệt của con người, khác với mọi loài động vật
15
và sinh vật trong trời đất chỉ có đơn thuần một ý thức đối ngoại. Với đặc tính ý
thức phục hồi này, con người có thể tự quan sát trên chính mình, biết mình làm
gì và biết mình là gì, biết mình sống và biết mình chết, biết mình hôm nay như
thế và biết mình ngày mai có thể khác xa, vượt lên hơn ngày hôm nay. Như thế,
ý thức làm cho con người đích thực là người, như khi ta nói đó là một con người
có ý thức, nghĩa là ý thức về hiện hữu và đang sống hiện hữu của mình, trong
liên đới với vạn vật thiên nhiên, lịch sử xã hội.
Theo tác giả Lưu Hồng Khanh, ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với cái Tôi
bởi “ý thức là một trạng thái tỉnh thức với chức năng quan sát, ghi nhận cảm
nhận, nhận định, phẩm định, phân định đối với các sự vật bên ngoài Tôi và đối
với các suy tư, cảm xúc và hình ảnh bên trong Tôi. Ý thức như thế có thể gọi là
một quan năng nhân định với bốn chức năng: cảm nhận, suy tư, đánh giá và
trực kiến. Thể hiện các chức năng nói trên, ý thức phải liên hệ với cái Tôi như
chủ thể, như động lực, như đầu não, như trung tâm. Bởi tất cả mọi đối tượng chỉ
được ý thức một khi chúng được liên hệ với cái Tôi” [44, tr.24]. Cũng theo tác
giả này, vì cái Tôi là chủ thể và là trung tâm của ý thức nên cái Tôi có khả năng
quyết định trên các nội dung của ý thức: nội dung nào có thể được giữ lại trong
ý thức, nội dung nào sẽ bị xua đẩy xuống vô thức, cũng như nội dung nào sẽ
được tưởng nhớ gọi từ vô thức lên lại ý thức. Chính nhờ cái Tôi mà con người
của ta được hình thành, được tiếp nối hiện hữu và được đồng nhất trong căn tính
bản sắc của mình.
Cũng chính nhờ cái Tôi mà ta có thể đặt liên lạc giữa ý thức và vô thức:
cái Tôi sẽ đón nhận những tín hiệu của vô thức được diễn tả qua cảm hứng, sáng
kiến, trực kiến, các hình ảnh trong chiêm mộng (mộng đêm và mộng ngày), cái
Tôi sẽ tìm hiểu những tín hiệu của vô thức nói trên, diễn tả chúng thành ngôn
ngữ cho ý thức, để rồi với ý thức thể hiện các tín thư của các tín hiệu đó trong
16
cuộc sống. Như thế cái Tôi là một cơ quan môi giới giữa ý thức và vô thức.
Trung tâm và chủ thể của ý thức là cái Tôi nhưng cái Tôi vẫn có liên hệ với vô
thức, bằng cách tiếp nhận vô thức và ý thức hóa vô thức. Ý thức không những là
khởi điểm mà còn là cơ quan kiểm nghiệm các nội dung từ vô thức đưa đến và
sau cùng là đích điểm bởi ý thức hóa được các nội dung từ lâu chìm lặn trong vô
thức.
Từ ý thức chúng ta nói đến ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân là nhận thức
của một cá nhân về thế giới và chính bản thân mình trong tư cách chủ thể nhận
thức. Nói đến ý thức cá nhân là nói đến toàn bộ sự tồn tại của con người trong
những mối quan hệ cụ thể. Nó gắn với những nhu cầu vật chất, tinh thần, tình
cảm, thẩm mỹ của mọi đối tượng. Ý thức cá nhân là một trong những yếu tố
giúp con người tự nhìn nhận mình, là khát vọng lớn lao đi tìm bản thân và luôn
tiềm ẩn trong mỗi con người.
Từ trước đến nay, khái niệm ý thức cá nhân đã từng được nhiều nhà
nghiên cứu như: Platon, Aristotle, Descartes, Epiquya đưa ra. Các nhà triết học
duy tâm nhìn nhận vấn đề ý thức cá nhân dưới hai phương diện: phương diện
thứ nhất là cái tôi với tư cách là khách thể của sự nhận thức; phương diện thứ
hai là cái tôi với tư cách là chủ thể của tư duy, chủ thể của nhận thức thế giới. Ở
cả hai phương diện trên, chúng ta nhận thấy những nhà triết học duy tâm đều
gắn liền vấn đề ý thức cá nhân với phương diện cái tôi cá nhân, xem cái tôi cá
nhân là một chủ thể của tư duy và nhận thức. Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức cá
nhân như là một thực thể độc lập có sẵn trong cá nhân, biểu hiện xu hướng về
bản thân mình, tự khẳng định cái tôi riêng biệt tách rời cái ta chung của xã hội.
Còn các nhà duy vật biện chứng lại có cách nhìn khác về cái tôi cá nhân.
Theo họ, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự tiến hoá sinh
vật của loài mà thành, đồng thời nó lại là sản phẩm của lịch sử-xã hội. Mác đã