Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận văn thạc sĩ văn học thơ chữ hán nguyễn du và thơ vương duy dưới góc nhìn so sánh
PREMIUM
Số trang
161
Kích thước
1.2 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1234

Luận văn thạc sĩ văn học thơ chữ hán nguyễn du và thơ vương duy dưới góc nhìn so sánh

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công

trình nào khác.

Người thực hiện

Bùi Thị Hồng

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn thạc sĩ

Ngữ văn, chuyên ngành Văn học Việt Nam. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến

gia đình luôn tiếp sức mạnh cho tôi đi hết chặng đường học tập và nghiên cứu vừa

qua.

Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn trường Đại

học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã luôn tận tụy truyền đạt những kiến thức

quý báu cho tôi trong quá trình giảng dạy.

Xin được bày tỏ lòng cảm ơn đến thầy Lê Quang Trường đã giúp đỡ tôi trong

quá trình thu thập tài liệu tham khảo quan trọng đối với đề tài của mình.

Đặc biệt xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến cô Lê Thu Yến,

người đã truyền tình yêu thơ chữ Hán Nguyễn Du đến với tôi và là người luôn tận

tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận văn.

Cuối cùng là lời cảm ơn đối với bạn bè đã đồng hành cùng tôi trong suốt thời

gian học tập cũng như nghiên cứu vừa qua.

Xin trân trọng cảm ơn!

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU....................................................................................................................1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG..................................................................8

1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán........................................................................ 8

1.1.1. Thời đại ............................................................................................... 8

1.1.2. Cuộc đời............................................................................................ 10

1.1.3. Thơ chữ Hán Nguyễn Du.................................................................. 13

1.2. Vương Duy và thơ Vương Duy................................................................ 14

1.2.1. Thời đại ............................................................................................. 14

1.2.2. Con người.......................................................................................... 16

1.2.3. Sự nghiệp .......................................................................................... 18

1.3. Nguyên lí văn học so sánh ....................................................................... 19

1.3.1. Nguyên lí chung của văn học so sánh............................................... 19

1.3.2. Cơ sở để so sánh Nguyễn Du và Vương Duy................................... 21

Chương 2. NHỮNG ĐIỂM GẶP GỠ GIỮA THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN

DU VÀ THƠ VƯƠNG DUY.............................................................25

2.1. Cảm hứng thế sự ...................................................................................... 25

2.1.1. Hiện thực xã hội................................................................................ 25

2.1.2. Số phận con người............................................................................. 39

2.2. Cảm hứng cá nhân.................................................................................... 48

2.2.1. Tự thán .............................................................................................. 49

2.2.2. Nỗi sầu li biệt .................................................................................... 59

2.3. Cảm hứng về không gian ........................................................................ 66

2.3.1. Không gian lữ thứ ............................................................................. 66

2.3.2. Không gian khép kín......................................................................... 76

Chương 3. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA THƠ CHỮ HÁN

NGUYỄN DU VÀ THƠ VƯƠNG DUY........................................86

3.1. Tinh thần Phật – Lão................................................................................ 86

3.1.1. Tinh thần Phật giáo ........................................................................... 86

3.1.2. Tinh thần Lão Trang ......................................................................... 98

3.2. Cảm hứng về thiên nhiên ....................................................................... 107

3.2.1. Vương Duy – hòa vào thiên nhiên.................................................. 107

3.2.2. Nguyễn Du – tả thực và độc lập với thiên nhiên ............................ 114

3.3. Cảm hứng về chủ thể trữ tình................................................................. 120

3.3.1. Con người nhàn trong thơ Vương Duy........................................... 121

3.3.2. Con người ràng buộc, lo âu trong thơ Nguyễn Du ......................... 126

3.4. Cảm hứng về thời gian........................................................................... 134

3.4.1. Thời gian hiện tại trong thơ Vương Duy ........................................ 134

3.4.2. Thời gian quá khứ trong thơ Nguyễn Du........................................ 139

KẾT LUẬN ...........................................................................................................144

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................146

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Mỗi quốc gia trên thế giới đều có một nền văn học riêng biệt, tuy nhiên trong

quá trình hội nhập giữa các đất nước nền văn học đó lại trải qua một quá trình tiếp

nhận, ảnh hưởng và tiếp biến. Do đó văn học của mỗi quốc gia mang tính quốc tế,

nó vừa mang những nét chung của khu vực, của nhân loại lại đồng thời có những

tính chất riêng biệt đặc trưng cho văn học của mỗi dân tộc. Chính vì vậy việc so

sánh các tác giả khác nhau của những dân tộc khác nhau sẽ giúp chúng ta hiểu sâu

hơn, đánh giá toàn diện hơn thành quả nghệ thuật của mỗi người. Không chỉ vậy

qua so sánh chúng ta còn rút ra được bản chất, quy luật tồn tại, phát triển và sáng

tạo của văn học. Đồng thời cũng thấy được sự ảnh hưởng, tiếp nhận và tiếp biến

giữa những nền văn học khác nhau của từng khu vực, từng quốc gia khác nhau.

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, là “tập đại thành” của nền văn

học trung đại nước ta, những tác phẩm ông để lại đã trở thành tài sản quý giá, mẫu

mực cho nền văn học cổ điển nước nhà. Vương Duy là nhà thơ nổi tiếng đời

Đường, ông được tôn vinh là Thi Phật, là nhà thơ xuất sắc của phái thơ Điền viên

sơn thủy cùng với Mạnh Hạo Nhiên. Cả hai nhà thơ tuy sống ở thời đại khác nhau

nhưng cùng dùng một ngôn ngữ (chữ Hán) và cùng thể thơ (Đường luật) để sáng

tác, đồng thời đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Phật giáo cũng như Lão

giáo. Chính vì vậy giữa họ có những nét tương đồng và khác biệt nhất định và có

thể đối thoại, so sánh với nhau. Qua so sánh Nguyễn Du và Vương Duy giúp chúng

ta hiểu rõ nét đặc sắc của mỗi nhà thơ, để tôn vinh những bản sắc riêng ấy cũng

như đặc trưng của hai nền văn học Việt Nam – Trung Hoa.

Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc đã hình thành từ

lâu đời. Sở dĩ hình thành mối quan hệ trên phương diện văn học bởi vì trong lịch sử

dân tộc ta nhiều lần chịu sự xâm lăng cũng như đô hộ của Trung Hoa, nền văn hóa

Trung Hoa đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa Việt Nam, văn học cũng là một

loại hình văn hóa cho nên tất yếu cũng chịu ảnh hưởng và hình thành nên mối quan

hệ này. Trong thời kì trung đại, cùng với sự thống trị của nhà nước phong kiến, cả

2

hai đất nước đều bị chi phối và ảnh hưởng bởi các học thuyết, tôn giáo, triết học,

đạo đức như Nho, Phật, Lão… Tuy nhiên mỗi nhà thơ lại có một hoàn cảnh riêng,

một thời đại sinh sống và cách sáng tạo nghệ thuật khác nhau chính vì thế mà các

sáng tác cũng sẽ có những khác biệt. Để tìm ra sự khác biệt đó cũng như nhân tố

tạo nên sự khác biệt thì chúng ta cần so sánh để thấy rõ sự khác biệt của các học

thuyết các tư tưởng thẩm thấu qua những nền văn hóa khác nhau sẽ có những biểu

hiện khác nhau ra sao. Từ đó chúng ta đánh giá được sự đóng góp của mỗi tác giả

cũng như đặc trưng dân tộc trong tác phẩm của họ.

Các công trình nghiên cứu trước đây về Nguyễn Du đa phần thường tập trung

vào kiệt tác Truyện Kiều, còn thơ chữ Hán chưa được tìm hiểu và nghiên cứu

nhiều, các công trình đã có trước đây chủ yếu đi sâu vào những vấn đề tư tưởng

nghệ thuật, tâm sự cá nhân, tấm lòng nhân đạo…mà Nguyễn Du biểu hiện trong thơ

chữ Hán của ông. Những công trình nghiên cứu theo hướng văn học so sánh về thơ

chữ Hán của Nguyễn Du lại càng ít ỏi. Còn tác gia Vương Duy thì hiện tại ở Việt

Nam còn ít được nghiên cứu và ít người biết đến. Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề

tài này với mong muốn góp thêm một tiếng nói về Nguyễn Du và Vương Duy.

Sau nữa, chúng tôi chọn thực hiện đề tài này vì sự yêu thích của bản thân đối

với Nguyễn Du nói chung và thơ chữ Hán Nguyễn Du nói riêng. Và cũng yêu thích

những bài thơ đậm chất Thiền nhưng không khô cứng mà ngược lại là sự dung hợp

hài hoà giữa con người và tự nhiên, giữa Phật lí và xúc cảm của Vương Duy.

2. Lịch sử vấn đề

Về tác giả Vương Duy, chúng tôi chỉ tìm thấy vài ba công trình nghiên cứu đã

được xuất bản. Một là Vương Duy thi tuyển của tác giả Giản Chi, hai là tác giả Vũ

Thế Ngọc với Vương Duy chân diện mục, và ba là nghiên cứu của Nguyễn Thị

Diệu Linh – Trần Thị Thu Hương: Tác giả tác phẩm văn học nước ngoài trong

nhà trường – Vương Duy. Các công trình trên đều đi sâu nghiên cứu về cuộc đời,

sự nghiệp thơ văn, thậm chí cả hội họa của nhà thơ Vương Duy. Khi bàn về thơ

Vương Duy, những tác giả trên đều chú ý đến Vương Duy với tư cách là một hiện

tượng “thi tăng” (chữ dùng của tác giả Trần Thị Thu Hương), thơ ông thể hiện nội

3

dung “thiền thú”. Riêng tác giả Trần Thị Thu Hương trước đó đã nghiên cứu sâu về

cảnh giới nghệ thuật trong thơ Vương Duy với công trình Một số đặc trưng cảnh

giới nghệ thuật thơ Vương Duy.

Cùng hướng nghiên cứu đó chúng tôi cũng tìm thấy hai bài viết của tác giả

Đinh Vũ Thùy Trang và Võ Thị Minh Phụng về tư tưởng thiền trong thơ Vương

Duy. Đặc biệt là tác giả Võ Thị Minh Phụng đã tiến hành so sánh chất thiền trong

thơ Vương Duy và thơ Huyền Quang để thấy rõ sự “xa rời trần tục mà tu theo tinh

thần xuất thế của Phật giáo”. Ngoài ra còn phải kể đến công trình đặc biệt chuyên

sâu của Nguyễn Diệu Minh Chân Như so sánh chất “đạm” trong thơ tuyệt cú của

Vương Duy và wabi trong thơ Haiku của Basho. Như vậy, hầu hết các công trình

nghiên cứu về Vương Duy đều thiên về tìm hiểu chất “thiền” trong thơ ông. Còn lại

những đánh giá khác về thơ Vương Duy xuất hiện trong các sách lịch sử về văn học

Trung Quốc cùng với một vài nhà thơ khác thuộc thi phái Sơn thủy điền viên là

Mạnh Hạo Nhiên, Trừ Quang Hy nhưng cũng chỉ đề cập ngắn gọn về cuộc đời và

sự nghiệp văn học của Thi Phật như Văn học sử Trung Quốc quyển 1 của Dịch

Quân Tả (Huỳnh Minh Đức dịch), Văn học sử Trung Quốc do Đặng Thai Mai

dịch...

Còn về những công trình nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du, đã có những tác

giả trong các chuyên luận và bài viết của mình bàn luận, đánh giá về thơ chữ Hán

của Nguyễn Tiên Điền như Hoài Thanh, Nguyễn Lộc, Mai Quốc Liên, Nguyễn Huệ

Chi, Lê Thu Yến, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Thị Nương,…Các tác giả trên đã tiếp

cận thơ chữ Hán Nguyễn Du dưới những góc độ khác nhau.

Nguyễn Lộc cho rằng thơ chữ Hán Nguyễn Du thể hiện tâm sự của nhà thơ

trước cuộc đời; tác giả Lê Thu Yến khảo sát đặc điểm về nghệ thuật trong thơ chữ

Hán Nguyễn Du; Nguyễn Huệ Chi lại đi sâu phân tích thế giới nhân vật đa dạng

trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du…

Chỉ có vài công trình nghiên cứu đi theo hướng văn học so sánh lấy Nguyễn

Du làm đối tượng chúng tôi tìm hiểu được là luận án Tiến sĩ của Hoàng Trọng

Quyền tiến hành so sánh Nguyễn Du và Đỗ Phủ trên phương diện tư tưởng nghệ

4

thuật, những tương đồng và dị biệt về tư tưởng nghệ thuật biểu hiện trong sáng tác

của hai nhà thơ.

Tác giả Lê Quang Trường so sánh chất tài tử giữa Nguyễn Du và Lý Thương

Ẩn trong công trình Chất tài tử trong thơ Nguyễn Du và thơ Lý Thương Ẩn. Ở

đây tác giả so sánh Nguyễn Du cùng với Lý Thương Ẩn dưới góc nhìn loại hình

nhà nho tài tử để làm rõ tài năng, cá tính và hùng tâm của Nguyễn Du và Lý

Thương Ẩn.

Tác giả Đoàn Lê Giang trong bài viết “Basho – Nguyễn Trãi – Nguyễn Du,

những hồn thơ đồng điệu” in trong Tạp chí văn học số 6, 2003, đã so sánh ba nhà

thơ và đưa ra những điểm tương đồng giữa họ về tình yêu thiên nhiên, tình cảm yêu

thương con người sâu sắc, hướng về con người; Huỳnh Quán Chi trong bài viết

“Phật kinh trong thơ văn Nguyễn Trãi và Nguyễn Du” đã khảo sát những biểu

hiện của tinh thần Phật giáo trong thơ văn Nguyễn Trãi và Nguyễn Du, dù chưa sâu

sắc và đầy đủ nhưng cũng đã đưa ra kết luận về sự xuyên suốt của mạch thiền trong

dòng chảy văn học trung đại Việt Nam.

Các công trình so sánh trên đây tuy theo hướng so sánh Nguyễn Du với những

nhà thơ, tác giả khác nhưng chưa hẳn lấy thơ chữ Hán của ông làm đối tượng chính

mà bao gồm cả những sáng tác khác của Nguyễn Du để đưa ra những ý kiến so

sánh, bàn luận.

Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nghiên cứu

riêng biệt nào nhìn thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy dưới góc nhìn so

sánh. Trên tinh thần tiếp thu và sáng tạo, chúng tôi đã dựa vào những công trình

nghiên cứu đi trước ở trên để tham khảo và chọn lựa đề tài này.

3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi chính là ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn

Du và những bài thơ của Thi Phật Vương Duy để qua đó tiến hành phân tích, so

sánh những điểm tương đồng cũng như dị biệt giữa hai nhà thơ để thấy được những

nét riêng của mỗi tác giả và của mỗi nền văn học dân tộc.

5

Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là đối sánh thơ của Nguyễn Du và Vương

Duy dựa trên vấn đề cảm hứng trong sáng tác của cả hai nhà thơ. Để từ đó hiểu

thêm về Nguyễn Du trong góc nhìn so sánh với Vương Duy.

Chúng tôi tiến hành khảo sát ba tập thơ của Nguyễn Du với 250 bài và 170 bài

thơ của Vương Duy chủ yếu trong tuyển tập của Giản Chi (134 bài), trong Vương

Duy chân diện mục (Vũ Thế Ngọc) và các tuyển tập thơ Đường ở Việt Nam (36

bài).

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp so sánh – đối chiếu: Sử dụng phương pháp này chúng tôi nhằm

đặt sáng tác của hai nhà thơ trong thế đối sánh với nhau, so sánh và đối chiếu để rút

ra những điểm gặp gỡ cũng như sự khác biệt trong việc thể hiện cảm hứng sáng tác

mang tính bản chất, tính đặc thù riêng của mỗi tác giả, mỗi nền văn học. Qua so

sánh chúng tôi nhằm xác lập vị trí của hai nhà thơ trong hệ thống văn học cổ điển

mỗi nước.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng phương pháp này chúng tôi tiến

hành phân tích, khảo sát những biểu hiện, những nét tương đồng của Tố Như và

Vương Duy.

Phương pháp lịch sử - xã hội: Mỗi một nhà thơ sống ở một thời đại khác nhau,

những yếu tố lịch sử, xã hội thời đại có tác động không nhỏ đến những sáng tác của

họ. Thông qua tìm hiểu hoàn cảnh xã hội, thời đại, cũng như yếu tố văn hóa thời

đại sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn toàn diện và lí giải được những đặc trưng

trong cảm hứng sáng tác của hai nhà thơ.

Phương pháp tiểu sử - thực chứng: phương pháp này nhằm giúp chúng tôi

dùng những cứ liệu lịch sử đã được xác thực để chứng minh, lí giải những ảnh

hưởng của chúng đối với sáng tác của hai nhà thơ.

Phương pháp hệ thống và thống kê: chúng tôi coi mỗi bài thơ của hai nhà thơ

là một yếu tố trong hệ thống toàn bộ sáng tác của họ, qua đó tiến hành khảo sát

những bộ phận đó đặt trong một hệ thống thống nhất để có thể bật lên phong cách

riêng của từng người.

6

5. Đóng góp của luận văn

Trong công trình của mình chúng tôi cố gắng để có thể làm rõ sự gặp gỡ,

những điểm tương đồng cũng như những sự khác biệt về vấn đề cảm hứng sáng tác

trong thơ của Nguyễn Du và Vương Duy.

Chúng tôi cũng mong muốn làm rõ thêm sự sâu sắc mang tính đặc thù của văn

hóa mỗi dân tộc thể hiện qua mỗi tác giả, và chỉ ra sự khác biệt trong cách thể hiện

tinh thần của hai học thuyết Phật giáo và Đạo giáo của hai nhà thơ. Đồng thời

mong muốn làm rõ rằng hai nền văn hóa Việt Nam và Trung Quốc tương đồng

nhưng không thống nhất sẽ có sự thể hiện khác biệt thế nào trong cảm hứng sáng

tác của mỗi nhà thơ. Qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn đặc trưng của văn học

trung đại Việt Nam cũng như bản sắc văn hóa thẩm mỹ của dân tộc Việt trong thế

đối sánh với dân tộc Trung Hoa.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có 3

chương:

Chương 1: Những vấn đề chung

Trong chương này chúng tôi giải quyết những vấn đề chung về hai tác giả

Nguyễn Du và Vương Duy như: thời đại, cuộc đời, và những nét khái quát về sự

nghiệp văn học. Từ thời đại và cuộc đời riêng của hai nhà thơ cũng chính là cơ sở

để chúng tôi lí giải sự tương đồng hay khác biệt trong thơ của họ. Đồng thời chúng

tôi cũng nêu những nguyên lí và cơ sở so sánh hai tác giả này từ bộ môn Văn học

so sánh làm nền tảng lí thuyết cho công trình so sánh của chúng tôi.

Chương 2: Sự gặp gỡ giữa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy

Ở chương này chúng tôi tiến hành phân tích những điểm gặp gỡ của thơ chữ

Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy. Đó là sự gặp gỡ về cảm hứng thế sự, cảm

hứng cá nhân và đặc biệt là cảm hứng về không gian.

Chương 3: Sự khác biệt giữa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy

Trong chương này, chúng tôi cố gắng làm rõ sự khác biệt giữa thơ chữ Hán

Nguyễn Du và thơ Vương Duy. Sự khác biệt trong cách thể hiện tinh thần Phật giáo

7

và Đạo giáo; sự khác biệt trong cách cảm hứng về thiên nhiên, về con người; cảm

hứng về thời gian. Chính những dị biệt này đã tạo nên hai phong cách độc đáo của

mỗi người.

8

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán

1.1.1. Thời đại

Nguyễn Du sinh ra trong một thời đại có thể nói là hỗn loạn, rối ren.

Xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII – XIX được coi là thời kì khủng hoảng sâu sắc

nhất của chế độ phong kiến, đồng thời đây cũng là thời kì diễn ra những sự kiện

lịch sử trọng đại.

Thứ nhất là sự sụp đổ không gì cưỡng nổi của chế độ phong kiến. Chiến tranh

giữa các phe phái bùng nổ mà tiêu biểu là cuộc đối đầu giữa họ Trịnh ở Đàng

Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong.

Đàng Ngoài với cơ chế “Vua Lê chúa Trịnh” đã bức người dân vào tình thế

“một cổ hai tròng”, vua chúa, quan lại chỉ lo ăn chơi hưởng thụ hơn là việc cai trị

đất nước. Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút đã dành khá nhiều trang viết để

lên án thực trạng sa đọa của quan lại, vua tôi nhà Nguyễn và bè lũ chúa Trịnh cũng

như tình cảnh thống khổ của người dân lúc ấy: “Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân

cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức

thu lấy, không thiếu một thứ gì…Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ

măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt

khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào” [49, tr.61]. Tình trạng quan

liêu hối lộ, tham nhũng, lộng quyền ngày càng trầm trọng. Không những vậy, thiên

tai, hạn hán liên miên đã làm cho vô số người dân lâm vào cảnh đói khổ, chết chóc.

Trước tình cảnh ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra dưới sự lãnh đạo

của các thủ lĩnh như Thục Toại, Nguyễn Kim Phẩm… nhưng đều bị đánh tan. Cũng

chính vào thời điểm đó, nội bộ triều đình Lê – Trịnh ngày càng gia tăng mâu thuẫn.

Bè phái Chúa Trịnh từ sau khi Trịnh Sâm lên ngôi ngày càng không xem vua Lê ra

gì, thái tử Duy Vĩ bị vu oan và giết chết. Trịnh Sâm say mê Đặng Thị Huệ nên phế

trưởng lập thứ lên làm vua khiến cho phe cánh của Đặng Thị Huệ ỷ thế làm càn.

Tuy nhiên sau khi Trịnh Sâm chết, cục diện trở nên hỗn loạn trầm trọng. Bè cánh

của Trịnh Khải lật đổ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ sinh ra kiêu căng. Chúng làm

9

loạn khắp nơi, uy hiếp, áp bức cả quan lại lẫn dân chúng. Hễ không vừa ý là đe dọa

phá nhà, giết người. Ngay cả Nguyễn Khản anh trai Nguyễn Du cũng bị bè lũ kiêu

binh phá tư dinh ở Bích Câu và phải chạy nạn. Dân chúng đã gọi đây là “loạn kiêu

binh”, sự ra đời của kiêu binh là dấu hiệu báo động sự sụp đổ hoàn toàn của bè lũ

Chúa Trịnh và càng khiến mâu thuẫn với nhân dân trở nên sâu sắc.

Trong khi đó chế độ phong kiến ở Đàng Trong bắt đầu rơi vào khủng hoảng.

Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, cho tiến hành cải cách và tổ

chức lại bộ máy nhà nước. Nhân đó bè lũ quan lại cũng tiến hành xây dựng dinh

thự phục vụ cho việc ăn chơi, hưởng lạc. Việc cải cách không đem lại kết quả tốt

đẹp mà kéo theo đó là cơ hội cho bọn quý tộc, quan lại đua nhau bóc lột nhân dân,

chơi bời xa xỉ. Nhân dân lầm than, xã hội rối ren, chính trị khủng hoảng. Sau khi

Nguyễn Phúc Khoát mất, Phúc Thuần lên thay nhưng vì còn nhỏ nên quyền lực rơi

vào tay bọn quan tham khiến cho tình hình chính trị càng lúc càng thối nát do sự

tranh giành quyền lực cũng như chém giết giữa các phe phái trong triều đình. Cùng

với đó là hạn hán, đói kém xảy ra, tiền kẽm không tiện lợi để lưu thông dẫn đến

buôn bán không thông. Người dân lại nổi dậy đòi quyền sống. Xã hội phong kiến

Việt Nam lúc này dường như đã đi vào con đường sụp đổ không thể cưỡng nổi.

Thứ hai là những cuộc nổi dậy đòi quyền sống của các phong trào nông dân.

Xã hội phong kiến thối nát đã đẩy người dân vào tình cảnh thống khổ vô cùng,

không thể chịu nổi những áp bức đó, họ đã đứng lên đấu tranh.

Tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu

Cầu, Hoàng Công Chất…và thành công nhất là phong trào Tây Sơn do ba anh em

Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ lãnh đạo đã đánh bại cả ba tập đoàn phong

kiến Lê – Trịnh – Nguyễn. Tiếc thay vị vua anh hùng, sáng suốt của phong trào

nông dân là Nguyễn Huệ lại ra đi một cách đột ngột khi tuổi đời còn trẻ. Người anh

hùng áo vải Quang Trung đã ra đi khi những cải cách thay đổi đất nước còn dang

dở. Từ sau khi ông mất nhân dân hai miền tiếp tục “oằn mình” chịu đựng những

cuộc chiến tranh.

10

Thời kì này chiến tranh diễn ra liên tục, hầu như năm nào cũng có những cuộc

đụng độ giữa các triều đại, các phe phái xảy ra, tầng lớp thống khổ nhất không ai

khác ngoài nhân dân lao động.

Sau khi triều đại Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh xây dựng triều Nguyễn. Dưới

sự cai trị khắc nghiệt theo Nho giáo chính thống của nhà Nguyễn, cuộc sống của

người dân dưới chính sách thuế khóa, lao dịch nặng nề hơn thời trước đầy cơ khổ,

lầm than. Chính vì vậy những cuộc khởi nghĩa nông dân tiếp tục nổ ra khiến giai

cấp thống trị hoảng sợ, khủng hoảng trầm trọng.

Nói chung đó là “những cuộc bể dâu”, những “phen thay đổi sơn hà”.

Như vậy, Nguyễn Du đã sống qua ba triều đại lần lượt là: Lê – Trịnh, Tây

Sơn, và Nguyễn. Ông đã chứng kiến tất cả những cuộc binh biến tàn khốc của các

tập đoàn phong kiến cũng như những cuộc khởi nghĩa nông dân đòi quyền sống.

Nhà thơ không chỉ chứng kiến mà còn trải nghiệm những nỗi cơ khổ của người

dân, thấy rõ cảnh nghèo đói, thấy rõ cảnh “bãi bể thành nương dâu”. Có thể kết lại

rằng thời đại Nguyễn Du là một thời đại biến động và khủng hoảng trầm trọng cả

bề mặt và chiều sâu tư tưởng và những biến động ấy đã để lại dấu vết không bao

giờ phai trong tư tưởng của nhà thơ.

1.1.2. Cuộc đời

Nguyễn Du sinh năm 1765 tại phường Bích Câu (Thăng Long), quê ở Tiên

Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

Ông xuất thân trong một gia đình quý tộc nổi tiếng bậc nhất lúc đương thời,

gia tộc ông có nhiều đời làm quan to, đó là truyền thống của dòng họ Nguyễn, đã

được nhân dân địa phương công nhận bằng hai câu ca dao:

Bao giờ ngàn Hống hết cây

Sông Rum hết nước, họ này hết quan

Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm. Ông là một sử gia, một nhà thơ và đồng

thời là quan lớn của triều Lê. Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần, là vợ thứ ba của

Nguyễn Nghiễm. Bà xuất thân ở vùng quan họ nổi tiếng và nhỏ hơn chồng 32 tuổi.

11

Anh lớn của Nguyễn Du là Nguyễn Khản (cùng cha khác mẹ) cũng là quan lớn

trong phủ Chúa. Nguyễn Khản có một cuộc sống phong lưu, thích thơ phú, soạn

nhạc, trong nhà lúc nào cũng có đàn ca hát xướng.

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Ông đỗ thấp (đỗ Tam

trường) nhưng lại thông minh, học rộng, thông hiểu cả Nho, Phật, Đạo. Dòng họ

Nguyễn không chỉ nổi tiếng nhiều đời làm quan mà còn nổi tiếng với truyền thống

văn học, có nhiều người viết sách và làm thơ. Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du

là một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh dịch; Nguyễn Nghiễm cha ông là một

sử gia, nhà thơ; Nguyễn Khản là anh cả của Tố Như cũng là một vị quan giỏi làm

thơ, hay đối đáp với Trịnh Sâm; rồi cả Nguyễn Nễ anh cùng mẹ với Nguyễn Du,

Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành là cháu ông cũng đều là nhà thơ, nhà văn có tiếng bấy

giờ. Có lẽ chính vì hai truyền thống ấy mà Nguyễn Du có một tâm hồn nhạy cảm

với văn chương, với nghiệp bút nghiên chăng?

Nguyễn Du sinh ra lúc gia đình còn có cuộc sống sung túc, êm đềm, song đến

năm nhà thơ mười tuổi thì cha mất, hai năm sau đó mẹ cũng mất. Lúc này Nguyễn

Du đến nương tựa tại nhà anh là Nguyễn Khản. Xuất thân từ một gia đình quyền

quý, tuổi thơ vàng son sống trong hạnh phúc ngắn ngủi của Nguyễn Du lại sớm kết

thúc, có lẽ lúc ấy cậu bé họ Nguyễn hụt hẫng biết bao.

Năm 1786, Nguyễn Khản mất, Nguyễn Quýnh (anh cùng cha khác mẹ của

Nguyễn Du) nổi lên chống Tây Sơn bị bắt và cũng bị giết, quân Tây Sơn đốt sạch

dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền. Lúc này Nguyễn Du cùng những anh em còn lại

cũng chia tay nhau mỗi người đi về một hướng khác nhau. Bản thân Nguyễn Du về

quê vợ ở Thái Bình. Sau khi người vợ họ Đoàn mất Nguyễn Du về lại quê nhà Hà

Tĩnh song nhà cửa đã bị quân Tây Sơn phá mất.

Nguyễn Du từng có ý định vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng bị tướng

Tây Sơn là Nguyễn Thận bắt giam. Song nhờ có anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn và

anh ruột là Nguyễn Nễ đang làm quan cho nhà Tây Sơn nên chỉ bị giam ba tháng

rồi được tha. Từ đó ông về ở hẳn ở Tiên Điền với những tâm sự nặng nề. Có lẽ

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!