Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận văn thạc sĩ văn học đặc điểm thơ trần nhân tông
PREMIUM
Số trang
157
Kích thước
955.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1236

Luận văn thạc sĩ văn học đặc điểm thơ trần nhân tông

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

Chương 1. THỜI ĐẠI LÝ – TRẦN VÀ PHẬT HOÀNG TRẦN

NHÂN TÔNG................................................................................ 12

1.1. Thời đại Lý - Trần.................................................................................... 12

1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử, văn hóa – xã hội thời Lý – Trần......................... 12

1.1.2. Văn học thời Lý – Trần..................................................................... 18

1.2. Phật hoàng Trần Nhân Tông và thiền phái Trúc Lâm ............................. 22

1.2.1. Trần Nhân Tông – thân thế và sự nghiệp.......................................... 22

1.2.2. Thơ văn Trần Nhân Tông.................................................................. 27

1.2.3. Thiền phái Trúc Lâm và tư tưởng của Trần Nhân Tông................... 29

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG THƠ TRẦN NHÂN TÔNG ............. 37

2.1. Tình yêu và niềm tự hào về quê hương đất nước..................................... 37

2.1.1. Tình yêu mến, gắn bó sâu sắc với đất nước và con người

Đại Việt........................................................................................... 37

2.1.2. Niềm tự hào về đất nước, con người và văn hóa Đại Việt............... 40

2.2. Tâm hồn phong phú, mẫn cảm và dạt dào chất nhân văn........................ 45

2.2.1. Mẫn cảm trước thiên nhiên ............................................................... 45

2.2.2. Mẫn cảm trong tình người................................................................. 54

2.3. Quan niệm sống phóng khoáng, tùy duyên của một người đạt đạo......... 60

2.3.1. Tinh thần nhập thế............................................................................. 60

2.3.2. Tinh thần an nhiên, tự tại .................................................................. 65

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ TRẦN NHÂN TÔNG ........ 72

3.1. Thể thơ ..................................................................................................... 72

3.1.1. Đường luật......................................................................................... 72

3.1.2. Cổ phong ........................................................................................... 75

3.2. Ngôn ngữ.................................................................................................. 78

3.2.1. Ngôn ngữ mang mĩ cảm thiền........................................................... 78

3.2.2. Ngôn ngữ tượng trưng, ẩn dụ............................................................ 81

3.3. Hình ảnh ................................................................................................... 88

3.3.1. Cách lựa chọn hình ảnh..................................................................... 88

3.3.1.1. Hình ảnh mùa xuân .................................................................... 88

3.3.1.2. Hình ảnh trăng............................................................................ 91

3.3.1.3. Hình ảnh giấc mộng................................................................... 94

3.3.2. Cách xây dựng hình ảnh.................................................................... 98

3.3.2.1. Cảnh vật được quan sát trong sự vận động theo thời gian và

dòng cảm xúc ............................................................................ 98

3.3.2.2. Cảnh vật được quan sát trong sự vận động biện chứng giữa

động và tĩnh, hư và thực ......................................................... 101

3.4. Giọng điệu.............................................................................................. 108

3.4.1. Giọng hào sảng, lạc quan................................................................ 108

3.4.2. Giọng tự tình, sâu lắng.................................................................... 109

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 113

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 117

PHỤ LỤC THƠ

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn học trung đại Việt Nam đã vận động và phát triển trong một quá trình

lâu dài và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Trong đó, văn học Lý – Trần là một

trong những đỉnh cao và mang nhiều nét riêng độc đáo. Với sự thâm nhập của

Phật giáo vào đời sống tinh thần của dân tộc, phong vị thiền trong thơ đã góp

phần làm cho văn học thời đại này phát triển rực rỡ và đi sâu vào tâm thức người

Việt, đem đến những rung cảm tinh tế và mang lại những giá trị nhân văn sâu

sắc. Trong dòng chảy của thơ văn Lý – Trần, tiêu biểu và đặc sắc là thơ thời

thịnh Trần.

Trong lịch sử dân tộc Việt, thời thịnh Trần là thời đại hoàng kim của cả dân

tộc. Đó là thời đại có vua sáng tôi hiền, nhân dân đoàn kết trên dưới một lòng;

vua quan cùng thần dân gắn bó, hành động vì lợi ích của quốc gia, xây dựng nên

một nước Đại Việt vững mạnh, độc lập, tự chủ. Đó là thời đại cả dân tộc ta

“tướng sĩ một lòng phụ tử”, hừng hực hào khí “sát Thát” làm nên ba lần chiến

thắng Nguyên – Mông vang dội. Có thời đại ấy là nhờ có những con người anh

hùng có nhân cách cao đẹp, có tấm lòng từ bi, có tài năng xuất chúng như Trần

Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông, Trần

Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Huyền Quang,… Trong đó, Trần Nhân Tông nổi

lên như một nhân vật kiệt xuất.

Không chỉ rạng danh trên lĩnh vực chính trị, Trần Nhân Tông còn là một

nhà thơ độc đáo, độc đáo vì ông được “đốn tỉnh” ngay trong lúc làm vua. Vừa

là một vị vua, vừa là một nhà sư, vừa là người đứng đầu của một Thiền phái,

nên trong thơ của Trần Nhân Tông có sự pha trộn giữa chất thiền với chất thế

sự, giữa đạo và đời. Thơ Trần Nhân Tông còn lại không nhiều, nhưng những

“viên ngọc” hiếm hoi, quí giá ấy theo thời gian vẫn tỏa lên những ánh sáng lung

linh khác thường. Với tư tưởng thiền nhập thế tích cực, Trần Nhân Tông đã

sáng tác nên những bài thơ với một cảm quan nghệ thuật tinh tế khiến người

2

đọc phải lắng lòng suy ngẫm. Đặc biệt, ông còn là người rất yêu thiên nhiên.

Trong thơ ông, lúc nào cũng thấy tràn ngập ánh trăng, bồng bềnh mây nước và

say đắm với giấc mơ xuân.

Mặc dù thơ Trần Nhân Tông dễ đi vào lòng độc giả và làm rung động trái

tim những người yêu thơ nhưng cũng còn khá xa lạ với sách giáo khoa. Hơn nữa

hầu hết các bài thơ đều viết bằng chữ Hán và bàng bạc chất Thiền nên gây

không ít khó khăn khi tiếp nhận đối với phần đông độc giả. Mặt khác, những

công trình nghiên cứu về thơ Trần Nhân Tông còn mang tính chất riêng lẻ, chỉ

tập trung ở một vài khía cạnh, phương diện, chưa thực sự có một công trình nào

đi nghiên cứu khái quát, toàn diện về Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông. Vì vậy,

chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này – Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông –

nhằm góp phần đưa thơ ông đến gần với số đông người đọc, đồng thời bản thân

người viết có thể tìm hiểu sâu về tài năng nghệ thuật và tâm hồn phong phú của

nhà thơ, nhà triết học, vị tổ phái Thiền Trúc Lâm – một con người kiệt xuất của

một thời đại hoàng kim.

2. Lịch sử vấn đề

Trần Nhân Tông không chỉ là một vị vua anh minh, một Thiền sư đắc đạo,

một nhà triết học lớn mà ông còn là một nhà thơ. Xét trên bình diện triết học,

Trần Nhân Tông có một vị trí quan trọng đối với Phật giáo nước nhà. Ông là

một triết gia lớn của Phật học Việt Nam. Với phái Thiền Trúc Lâm mà Trần

Nhân Tông là người sáng lập, triết học Phật giáo Việt Nam thời Trần đã phát

triển rực rỡ và mang đậm bản sắc dân tộc, thể hiện được đầy đủ trí tuệ Việt

Nam, bản lĩnh Việt Nam. Xét trên bình diện dân tộc, Trần Nhân Tông là một vị

vua hiền minh, anh hùng, có lòng yêu nước thương dân, có tinh thần dân tộc

cao cả. Với việc khuyến khích sử dụng chữ Nôm và đưa chữ Nôm vào sáng tác

văn học, chúng ta càng cảm nhận được tinh thần dân tộc của bậc minh quân

này. Bên cạnh đó, Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn của dân

tộc. Thơ ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan

3

thế sự. Với tầm quan trọng như vậy nên có nhiều công trình nghiên cứu đi vào

tìm hiểu tư tưởng, thơ văn của ông.

Những công trình nghiên cứu này có thể chia làm hai hướng như sau:

2.1. Trần Nhân Tông là một bộ phận của đối tượng nghiên cứu

Nguyễn Lang trong quyển “Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn Học

Hà Nội, 1979) đi vào nghiên cứu các thiền phái: Tì ni đa lưu chi, Thảo Đường,

Vô Ngôn Thông; nghiên cứu phật giáo thời Lý, Trần và một số Thiền sư: Trần

Thái Tông, Tuệ Trung, Thiền sư Pháp Loa, Huyền Quang,… Trong đó chương

XII đi vào nghiên cứu Trần Nhân Tông và Thiền phái Trúc Lâm. Công trình đã

nghiên cứu về Trần Nhân Tông qua các vấn đề: một ông vua xuất gia, ý nguyện

xây dựng một nền hòa bình Chiêm – Việt lâu dài, xây dựng một giáo hội mới, và

tư tưởng Thiền học.

Công trình Lịch sử Phật giáo Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ biên được

nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội ấn hành vào năm 1991, đã nghiên cứu quá

trình vận động và phát triển của Phật giáo Việt Nam từ khi được du nhập từ Ấn

Độ sang cho đến thế kỉ XIX. Trong Chương IX, tác giả đi vào nghiên cứu Phật

giáo thời Trần, mà cụ thể là tìm hiểu Thiền phái Trúc Lâm và có đề cập ngắn

gọn đến Trần Nhân Tông. Tác giả đã đi vào phân tích một số bài thơ để chứng

minh tư tưởng của Trần Nhân Tông, và từ đó có sự so sánh với Tuệ Trung

Thượng sĩ. Qua đó, tác giả nhận định: “Nhân Tông cũng thường dùng các hình

ảnh, biểu hiện một tâm hồn thơ gần với Tuệ Trung, nhưng về nội dung thì không

độc đáo, gây tác động mạnh như ở Tuệ Trung”.

Trong công trình Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm của

Trương Văn Chung (Luận án phó Tiến sĩ, bảo vệ năm 1996), tác giả cũng phân

tích, tổng kết tư tưởng của thiền phái thông qua việc đi sâu phân tích tư tưởng

của những nhân vật tiêu biểu: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung,..

Đặc biệt, tác giả đi sâu vào phân tích tư tưởng của người sáng lập ra Thiền phái

là Trần Nhân Tông. Qua việc so sánh tư tưởng của Trần Nhân Tông với Trần

4

Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ, tác giả làm nổi bật những điểm khác biệt,

điểm riêng của Trần Nhân Tông trong tư tưởng triết học và đi đến khẳng định:

Ông đã kết hợp trong đời mình một người anh hùng võ công hiển hách

với một đức phật từ bi, cốt cách thanh tao. Ông trở thành một ông vua

triết gia, một phật tử có nhãn quan chính trị, ảnh hưởng lớn lao đến

triều đình và toàn xã hội”, “Trần Nhân Tông chịu ảnh hưởng triết lí

nhà Phật, song đó không phải là tư tưởng, chủ trương xuất thế đi tìm

sự giải thoát ở cõi hư không, mà là tư tưởng Phật giáo có khả năng

dung hợp cả Nho giáo, Lão giáo và truyền thống tinh thần của dân

tộc. sự dung hợp đó tạo cho Phật giáo một dáng vẻ mới mang màu sắc

Việt Nam với tinh thần nhập thế tích cực [9, tr.63].

Nguyễn Hùng Hậu trong quyển Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam,

tập 1, từ khởi nguyên đến thế kỉ XIV (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002) cũng

đi vào phân tích, tổng kết tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm qua việc

phân tích tư tưởng qua các bài thơ của một số nhân vật tiêu biểu của Thiền phái

như Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.

Qua việc tìm hiểu, phân tích vai trò, tư tưởng của Trần Nhân Tông, tác giả

khẳng định:

Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị nhìn xa trông rộng mà còn

là nhà quân sự có tài; không chỉ là nhà ngoại giao, mà còn là nhà tư

tưởng, nhà văn, nhà thơ; không chỉ là vị quân vương mà còn là nhà tu

hành; không chỉ là nhà văn hóa mà còn là vị thiền sư lỗi lạc. Thời đại

oanh liệt đã sản sinh ra ông, và ông đã làm cho thời Trần càng thêm

oanh liệt [17, tr.130].

Trong những công trình kể trên, các tác giả chủ yếu đi vào nghiên cứu tư

tưởng triết học, tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông. Ngoài những công

trình này, cũng có rất nhiều công trình khác đi vào nghiên cứu Trần Nhân Tông

như một tác giả văn học.

5

Nguyễn Đăng Thục đã công bố một số công trình: Thiền học Việt Nam và

Lịch sử tư tưởng Việt Nam (nhiều tập) bàn về Thiền Tông Việt Nam và tính kế

thừa, phát triển của nó qua các thời kì. Đặc biệt, trong quyển Lịch sử tư tưởng

Việt Nam, tập IV: Lịch sử tư tưởng Thời Trần (Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1998),

tác giả đi tìm hiểu “Tâm lí nghệ thuật Thiền” của Trần Nhân Tông. Sau khi phân

tích một số bài thơ, tác giả khẳng định “Cho nên ở Ngài, văn chương biểu hiện

tâm hồn hết sức trung thực, tự nhiên, không chút dụng ý bó buộc, chỉ là theo đà

cảm hứng bồng bột hồn nhiên mà phát biểu. Cảm hứng càng thâm sâu thì phát

biểu càng sáng sủa.”

Trong công trình Thơ thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch sử và tư tưởng

nghệ thuật của Nguyễn Phạm Hùng (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 1998),

tác giả đi vào phân tích thơ của các Thiền sư để từ đó khái quát nên tư tưởng

nghệ thuật mà họ gởi gắm. Trần Nhân Tông cũng được tác giả chú ý nhấn mạnh

với nhận định: “Nhân Tông là người uyên bác, lịch lãm, là một nghệ sĩ có tài.

Ông là một trong những thi sĩ Thiền tiêu biểu của thời này với những vần thơ

đẹp đẽ, sâu sắc” [24, tr.164].

Đoàn Thị Thu Vân cũng đã công bố một số các công trình có liên quan

như: công trình Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Việt Nam thế kỉ X –

thế kỉ XVI (Nxb Văn học và trung tâm nghiên cứu Quốc học, 1996); Con người

nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại (Nxb Giáo dục, 2007), và một

số các bài viết đăng trên Tạp chí Văn học như: Một vài nhận xét về ngôn ngữ

thơ Thiền Lý Trần (2/1992, tr.35); Quan niệm về con người trong thơ Thiền

Lý Trần (3/1993, tr.12). Trong các công trình và bài viết này, tác giả cũng đã

trích dẫn một số bài thơ của Trần Nhân Tông để chứng minh các luận điểm của

mình. Đặc biệt, trong công trình trình Con người nhân văn trong thơ ca Việt

Nam sơ kì trung đại (Nxb Giáo dục, 2007), tác giả dành một phần trong chương

3 để viết về những rung cảm tinh tế và nhạy bén trong tâm hồn Trần Nhân Tông.

6

Và để chứng minh, tác giả đi vào phân tích kĩ một số bài thơ của Trần Nhân

Tông.

Quyển Văn học trung đại Việt Nam do Lê Trí Viễn chủ biên (tài liệu lưu

hành nội bộ của trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh năm 1985) và quyển

Văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX) do Đoàn Thị Thu Vân

chủ biên (Nxb Giáo Dục năm 2008) khi viết về văn học Lý – Trần, có trích dẫn

một số câu thơ của Trần Nhân Tông để minh họa cho những luận điểm về nội

dung và nghệ thuật.

Hai công trình của tác giả Nguyễn Công Lý là Bản sắc dân tộc trong văn

học Thiền Tông thời Lý Trần (Nxb Văn hóa Thông tin, 1997) và Văn học Phật

giáo thời Lý Trần – diện mạo và đặc điểm (Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí

Minh, 2002) đã cung cấp cho độc giả cái nhìn toàn diện và hệ thống về diện

mạo, đặc điểm và bản sắc dân tộc qua thơ văn Lý Trần. Để củng cố vững chắc

các luận điểm, công trình đã trích dẫn sáng tác của các tác giả, trong đó có các

sáng tác của Trần Nhân Tông.

Năm 2008, luận án Tiến sĩ Ngữ văn của Trần Lý Trai Giá trị văn học trong

tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm đã đi vào phân tích và lí giải các tác phẩm

của Trần Nhân Tông cùng những sáng tác của các tác giả thuộc Thiền phái như:

Trần Thái Tông, Tuệ Trung,… về các phương diện:

- Tư tưởng Thiền học với quan điểm Phật tại tâm, chủ thuyết “cư trần lạc

đạo”, tinh thần tùy duyên, hành thiền tu chứng;

- Các cảm hứng chính: Bản thể giải thoát, cảm hứng nhân văn – thế sự, cảm

hứng quê hương đất nước, cõi thiên nhiên Phật nhiệm màu;

- Giá trị nghệ thuật về các mặt: ngôn ngữ, thể loại, các thủ pháp nghệ thuật.

Đối tượng chính của các công trình trên là tác phẩm văn học Phật giáo của

cả thời đại, Trần Nhân Tông chỉ là một trong những gương mặt tiêu biểu của

thời đại. Vì vậy, thơ văn của ông chưa được nghiên cứu, bàn bạc kĩ.

7

2.2. Trần Nhân Tông là đối tượng chính của công trình nghiên cứu

Lê Mạnh Thát có Toàn tập Trần Nhân Tông (Nxb Tp. Hồ Chí Minh,

2000). Trong công trình này, tác giả chia làm hai phần: Phần đầu giới thiệu tổng

quát về sự nghiệp của Trần Nhân Tông từ thời trẻ cho đến vai trò của vua trong

hai cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông, trong việc sử dụng tiếng Việt và

thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử; phần thứ hai, cung cấp các sáng tác của

Trần Nhân Tông từ thơ, phú, văn xuôi, bài giảng cho đến các văn thư ngoại giao.

Trong khi bàn về vị trí văn học của Trần Nhân Tông, tác giả khẳng định:

Vua Trần Nhân Tông là người mở đầu cho một giai đoạn văn học mới

của lịch sử văn học Việt Nam, đó là giai đoạn văn học mà tiếng Việt là

chủ ngữ. Không những thế, với những vần thơ chữ Hán và những tác

phẩm văn xuôi sắc sảo, vua Trần Nhân Tông đã cống hiến cho ta

những cảm thụ mới mẻ về những vấn đề muôn đời của con người [41,

tr.297].

Bài viết Trần Nhân Tông và tầm vóc một thời đại của Nguyễn Huệ Chi và

Trần Thị Băng Thanh, đã đánh giá Trần Nhân Tông ở cả ba phương diện: nhà

vua, nhà thiền học, nhà thơ. Thơ Trần Nhân Tông được đánh giá là “thanh nhã,

sâu sắc nhưng không kém phần hào hùng” [8, tr.146], “cảm hứng thế tục và cảm

hứng thiền hòa quyện với nhau” [8, tr.169]. Bản thân vua Trần Nhân Tông được

xem là một cây bút có phong cách và cũng là một đỉnh cao trong thơ ca thịnh

Trần.

Năm 2008, hội thảo khoa học về vua Trần Nhân Tông diễn ra tại Quảng

Ninh. Tại hội thảo này các học giả cũng có nhiều tham luận đánh giá một cách

sâu sắc và toàn diện về vị vua thứ ba nhà Trần (đăng trên trang

http://www.thuvienhoasen.org). Tiêu biểu có thể kể đến các bài viết: Trần Nhân

Tông – đức vua sáng tổ một dòng thiền của Nguyên Giác, Vua Trần Nhân Tông

và tinh thần “bụt ở trong nhà” của Thích Hải Ấn, Phật hoàng nước Việt của

Thích Nhật Quang, Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị minh quân và thiền sư vĩ

8

đại của Việt Nam của Thích Nhật Từ, Trần Nhân Tông – vị anh hùng dân tộc

khai sáng tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Trần Lưu,… Tất cả các bài viết này

đều ca ngợi tài năng, phẩm chất của đức vua – thiền sư Trần Nhân Tông.

Năm 2011 Bùi Huy Du bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Triết học Tư

tưởng triết học của Trần Nhân Tông. Trong công trình này, tác giả đi vào

nghiên cứu nội dung tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông về các mặt:

- Thế giới quan trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông: Quan niệm về

bản thể và mối quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng

- Nhân sinh quan và triết lí đạo đức trong tư tưởng triết học Trần Nhân

Tông: Quan niệm của Trần Nhân Tông về cuộc đời con người và vai trò của con

người trong cuộc sống; quan niệm của Trần Nhân Tông về vấn đề rèn luyện tinh

thần đạo đức, trí tuệ, giải thoát.

Sau khi đi vào tìm hiểu nội dung triết học của Trần Nhân Tông, tác giả khái

quát đặc điểm và giá trị lịch sử của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông. Như vậy,

tác giả công trình đã đem đến cho người đọc một cái nhìn hệ thống, toàn diện và

đầy đủ về tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông.

Nhìn chung, những công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu tập trung vào

vấn đề tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông chứ chưa nghiên cứu một cách cụ

thể, sâu sắc và có hệ thống các sáng tác của Trần Nhân Tông, đặc biệt là ở mảng

thơ, để làm nổi bật vị trí, đặc điểm riêng của thơ ông trong dòng chảy của thơ

văn thời Lý – Trần.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng mà luận văn tập trung nghiên cứu là các sáng tác thơ của Trần

Nhân Tông. Qua thơ Trần Nhân Tông, luận văn hướng đến làm rõ những nét cơ

bản trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện của các sáng tác, đồng thời góp phần

khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao quí của tác giả.

Tài liệu khảo sát chủ yếu của luận văn là toàn bộ sáng tác thơ của Trần

Nhân Tông (gồm 32 bài và 6 đoạn phiến) trong tập văn bản: Toàn tập Trần

9

Nhân Tông của tác giả Lê Mạnh Thát, Nxb Tp. Hồ Chí Minh (có khảo sát và đối

sánh văn bản với các tập văn bản sau: Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng

do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Nxb Khoa học xã hội 1988 ; Thơ văn Lý – Trần

của tác giả Lê Bảo (tuyển chọn), Nxb Giáo dục (tái bản lần 2), năm 2001).

4. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp và thao

tác sau:

4.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp

Để rút ra được những đặc điểm nổi bật của thơ Trần Nhân Tông cả về mặt

nội dung lẫn nghệ thuật, người viết đi sâu phân tích các sáng tác của nhà thơ.

Trên cơ sở đó sẽ có cái nhìn đầy đủ hơn, sâu hơn, chính xác hơn về những đặc

điểm đáng lưu ý.

Từ sự phân tích đó, người viết tìm ra đặc điểm chung (dựa vào tần suất

xuất hiện) để có thể khái quát thành những luận điểm chung mang tính chất đặc

trưng riêng. Đặc điểm về nội dung cũng như nghệ thuật của một tác giả thường

trải dài trong suốt quá trình sáng tác, và Trần Nhân Tông cũng không phải là

ngoại lệ. Vì vậy, cần có cái nhìn khái quát để thấy được những đặc trưng nổi bật

cũng như những đóng góp của ông.

4.2. Phương pháp so sánh – đối chiếu

Để làm nổi bật đặc điểm riêng của thơ Trần Nhân Tông, không thể tách tác

giả khỏi dòng chảy của thơ văn thời đại. Chỉ khi đặt nhà thơ trong quan hệ so

sánh với các bậc tiền bối, cũng như thế hệ các tác giả cùng thời thì mới thấy

được điểm riêng của ông. Vì vậy, trong quá trình phân tích, chứng minh, người

viết có so sánh, đối chiếu về một số vấn đề với các nhà thơ khác.

4.3. Phương pháp loại hình

Thơ Trần Nhân Tông là thơ cổ điển, chủ yếu được viết bằng chữ Hán, nên

mang những đặc điểm chung của thơ chữ Hán (hàm súc, cô đọng, “ý tại ngôn

ngoại”,…). Luận văn sử dụng phương pháp loại hình nhằm xác định những điểm

10

gặp gỡ về nghệ thuật thể hiện của thơ Trần Nhân Tông so với thơ chữ Hán, và

những nét độc đáo, sáng tạo riêng của tác giả.

4.4. Thao tác thống kê

Tuy sử dụng không nhiều, song đây là thao tác cần thiết để tạo nên những

cơ sở nhận định mang tính khoa học, khách quan.

Ngoài ra, luận văn cũng đã sử dụng phương pháp bổ trợ: phương pháp

văn hóa lịch sử (nghiên cứu những ảnh hưởng của thời đại, các yếu tố văn hóa

đến nội dung sáng tác và nghệ thuật biểu hiện của thơ Trần Nhân Tông) để làm

nổi bật vấn đề.

Thật ra, việc phân chia, liệt kê các phương pháp như trên chỉ có tính chất

tương đối. Trên thực tế, các phương pháp luôn được vận dụng trong thế kết hợp,

đan xen nhau trong quá trình trình bày. Tất cả đều nhằm giải quyết tốt nhất

những yêu cầu về mục đích mà đề tài đã đặt ra.

5. Mục đích và đóng góp của luận văn

5.1. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu đặc điểm thơ Trần Nhân Tông để từ đó thấy được những nét đặc

trưng riêng trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó, có một cái nhìn

toàn diện, bao quát và cụ thể về thơ Trần Nhân Tông.

5.2. Đóng góp của luận văn

Bằng việc phân tích, tìm hiểu, lí giải các tác phẩm thơ cụ thể, luận văn cố

gắng đưa ra cái nhìn hoàn chỉnh, bao quát và có hệ thống về những đặc điểm

chính của nội dung và những đặc sắc về nghệ thuật trong thơ Trần Nhân Tông.

Từ đó, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và tài năng nghệ thuật của Trần

Nhân Tông.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chương:

+ Chương 1: Thời đại Lý – Trần và Phật hoàng Trần Nhân Tông

11

Chương này đi vào giới thiệu bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội cũng như

thơ văn thời Lý – Trần. Bên cạnh đó, cũng giới thiệu về thân thế, con người, tư

tưởng của Trần Nhân Tông, để từ đó thấy được sự tác động của thời đại và thân

thế đến tư tưởng, tình cảm của ông trong thơ.

+ Chương 2: Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông – nhìn từ góc độ nội dung

Chương này tập trung phân tích và chỉ rõ những đặc điểm chính về nội

dung của thơ Trần Nhân Tông, từ đó khám phá những nỗi lòng, tâm trạng của

một vị vua, một thiền sư đắc đạo.

+ Chương 3: Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông – nhìn từ góc độ nghệ thuật

Chương này tìm hiểu những đặc điểm về nghệ thuật trong thơ Trần Nhân

Tông dựa trên các phương diện: Thể thơ, ngôn ngữ và giọng điệu. Việc phân

tích những đặc điểm nghệ thuật ở đây cùng với việc chỉ ra những đặc điểm về

nội dung ở chương trước sẽ góp phần làm sáng tỏ con người và tài năng nghệ

thuật Trần Nhân Tông.

12

Chương 1

THỜI ĐẠI LÝ – TRẦN VÀ PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

1.1. Thời đại Lý – Trần

1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử, văn hóa – xã hội thời Lý – Trần

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã đưa đất nước ta thoát khỏi ách đô hộ

hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, bước đầu thiết lập nhà nước quân

chủ độc lập và chuyển sang một giai đoạn mới: thời trung đại. Các triều đại

phong kiến ra đời, ngày càng phát triển hùng mạnh. Các triều đại Ngô, Đinh,

Tiền Lê đã dần dần củng cố và hoàn thành thống nhất quốc gia. Những thành

tựu phục hồi và bước đầu xây dựng kinh tế – văn hóa Đại Cồ Việt của nhà Đinh

và nhà Tiền Lê đã tạo thành những nền tảng cơ bản cho hai vương triều Lý, Trần

xây dựng nhà nước độc lập và đưa nước Đại Việt phát triển đến đỉnh cao trong

lịch sử dân tộc. Có thể nói thời đại Lý – Trần là thời đại hào hùng, oanh liệt và

rực rỡ nhất trong lịch sử nước nhà.

Trước hết, thời Lý – Trần là thời đại phục hưng, phát triển, ổn định và

thống nhất đất nước. Ngay khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ

vùng đất Hoa Lư về Đại La (1010) và đặt tên kinh đô mới là Thăng Long. Quyết

định dời đô về Thăng Long cho thấy đất nước đã ổn định và phát triển, địa thế

núi non hiểm trở để phòng ngự ở Hoa Lư tỏ ra nhỏ hẹp, không còn thích hợp để

đóng đô mà thế đô phải là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước.

Với những yêu cầu mới trước sự vững mạnh của đất nước, Thăng Long “xứng

đáng là đế đô muôn đời cho con cháu mai sau” [1, tr.420]. Cùng với việc dời đô,

vua Lý Thái Tổ đã đổi tên nước là Đại Việt. Đây là niềm tự hào của cả đất nước,

và nó đã trở thành quốc hiệu được sử dụng lâu dài trong lịch sử của chế độ

phong kiến ở nước ta dưới thời trung đại.

Để củng cố triều đại, nhà Lý bắt đầu xây dựng một triều đình theo lối chính

qui. Đứng đầu là vua với danh xưng Hoàng đế. Vua giữ quyền quyết định trong

tất cả mọi việc. Bên cạnh nhà vua còn có các quan văn, quan võ. Để giúp vua

13

phụ trách các mặt về chính trị, quân sự, nhà vua đã đặt thêm một số cơ quan

chuyên trách. Đến triều Trần, bộ máy nhà nước trung ương tập quyền được tăng

cường về mọi mặt. Nhà Trần cũng đặt thêm nhiều cơ quan chuyên trách mới để

đáp ứng những yêu cầu cho việc phát triển bộ máy hành chính. Các vua Trần đặt

ra lệ nhường ngôi sớm cho con, tự xưng là Thái thượng hoàng, cùng con trông

nom việc nước để tập dượt cho vua con quen dần với việc trị nước. Đây là điều

hoàn toàn khác với triều Lý. Nhìn chung, bộ máy quan lại của nhà Trần cũng

gồm có ba bậc như thời Lý nhưng có qui củ và đầy đủ hơn. Có một điều đặc biệt

và khác với thời Lý là các chức quan cao cấp ở thời Trần đều nằm trong tay của

giới quí tộc tôn thất nhà Trần. Để giữ vững triều đình, hai triều Lý, Trần rất quan

tâm đến phương diện lập pháp. Nhà Lý có bộ Hình thư, nhà Trần có Quốc triều

thống chế và Hình luật thư. Pháp luật thời Trần chủ yếu dựa trên pháp luật của

thời Lý, nhưng có bổ sung thêm một số yếu tố để đề cao uy quyền của nhà vua

và địa vị thống trị. Vì vậy, so với pháp luật thời Lý, pháp luật thời Trần hoàn

chỉnh, qui củ và nghiêm khắc hơn.

Tiếp nối sự nghiệp thống nhất dân tộc của các triều đại trước, thời Lý –

Trần, triều đình rất chú ý quan tâm đến các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân

tộc vùng biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, đưa ra nhiều biện pháp nhằm củng

cố khối đoàn kết dân tộc và thống nhất quốc gia. Mặc dù đất nước đã được độc

lập nhưng nguy cơ ngoại xâm vẫn còn vì bọn phương Bắc luôn luôn dòm ngó.

Do đó, để củng cố nền thống trị và sẵn sàng ứng phó với nạn ngoại xâm, việc

xây dựng quân đội rất được nhà nước chú trọng. Quân đội được chia làm hai

loại: quân cấm vệ và quân các lộ. Khi có chiến tranh, nhà nước sẽ tuyển lính dựa

vào sổ quân, khi hòa bình thì quân lính được luân phiên nhau về làm ruộng và ở

lại quân ngũ để canh gác. Đây là chính sách “ngụ binh ư nông” có cơ sở từ thời

Tiền Lê và được hoàn chỉnh ban hành dưới hai triều Lý, Trần. Dưới thời Trần,

quân đội chủ yếu được xây dựng theo phương châm “quân cốt tinh nhuệ, chứ

không cốt nhiều”, tức là chú ý đến chất lượng hơn là số lượng, trang bị cũng đầy

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!