Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Luận văn thạc sĩ UEB nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép việt nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
§¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI
TR¦êNG §¹I HäC KINH TÕ
-----------------------
TRỊNH VŨ MINH
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH THÉP VIỆT NAM
Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ chÝnh trÞ
M· sè
LUËN V¡N TH¹C Sü KINH TÕ CHÝNH TRÞ
NG¦êI H¦íNG DÉN KHOA HäC
TS. Phạm Quang Vinh
Hµ Néi - 2008
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ
1.1. Lý luận chung về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
1.1.2. Các loại hình cạnh tranh
1.1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh trong ngành sản xuất thép - Bài học đối với ngành
thép Việt Nam
1.2.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc – Bài học đối với Việt Nam
1.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc – Bài học đối với Việt Nam
1.2.3. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN – Bài học đối với
Việt Nam
Kết luận chương
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÀNH THÉP VIỆT NAM
2.1. Năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam
2.1.1. Năng lực cạnh tranh trong khâu nguyên liệu
2.1.2. Năng lực cạnh tranh về thiết bị và công nghệ sản xuất
2.1.3. Năng lực cạnh tranh về qui mô sản xuất
2.2. Những tồn tại trong năng lực cạnh tranh của nghành thép
Việt Nam
2.2.1. Về nguyên liệu đầu vào
2.2.2. Về cơ cấu đầu tư
2.3. Những nguyên nhân làm suy giảm năng lực cạnh tranh của
3
ngành thép Việt Nam
2.3.1. Những nguyên nhân chủ quan
2.3.2. Những nguyên nhân khách quan
Kết luận chương
Chƣơng 3: NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG MỚI VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
THÉP VIỆT NAM
3.1 Một số bối cảnh mới có ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh
của ngành thép Việt Nam
3.1.1. Những dự báo về nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thép ở Việt
Nam giai đoạn 2008 – 2010
3.1.2. Những biến động đối với ngành thép Việt Nam sau khi gia
nhập WTO
3.1.3. Những biến động trên thị trường thép thế giới
3.1.4. Những vấn đề đặt ra cho ngành thép Việt Nam
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành thép Việt Nam
3.2.1. Đi đôi với việc đầu tư mới một số nhà máy cán thép hiện
đại là từng bước đầu tư các nhà máy sản xuất phôi thép
3.2.2. Thực hiện việc tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp, đổi mới
tổ chức và quản lý doanh nghiệp
3.2.3. Giải pháp đầu tư mạnh mẽ đổi mới thiết bị và công nghệ
3.2.4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
3.2.5. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ
3.2.6. Giải pháp đầu tư mở rộng và chiếm lĩnh thị trường
3.2.7. Các giải pháp về tài chính
KẾT LUẬN
4
TÀI LIỆU THAM KHẢO
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã từ lâu ngành sản xuất công nghiệp nặng nói chung và ngành sản
xuất thép nói riêng luôn có một vai trò quan trọng trong chính sách kinh tế
của Đảng và nhà nước ta. Quá trình xây dựng và phát triển đất nước luôn đòi
hỏi chúng ta phải có ngành công nghiệp thép đủ mạnh để bên cạnh là một
ngành kinh tế mũi nhọn còn góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của một
loạt các ngành công nghiệp khác như công nghiệp đóng tàu, chế tạo máy,
công nghiệp xây dựng....
Hơn hai thập kỷ đổi mới vừa qua những thành tựu mà ngành thép nước
ta đạt được là không thể phủ nhận. Từ chỗ hơn 70% nhu cầu thép cho xây
dựng, gần 100% thép chế tạo phải trông chờ vào viện trợ nước ngoài hoặc
thông qua nhập khẩu thì đến nay chúng ta đã có thể sản xuất trên 3 triệu tấn
thép xây dựng gần 1.8 triệu tấn thép hình các loại về cơ bản đã đáp ứng được
nhu cầu thép cho xây dựng trong nước.
Tuy nhiên, thực tế những năm gần đây đặt ngành thép Việt Nam trước
một loạt những khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Các nhà máy cán thép
Việt Nam liên tục thua lỗ, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm sản xuất ra không thể
cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại được nhập khẩu từ Trung Quốc và các
nước trong cũng như ngoài ASEAN. Các sản phẩm thép dẹt, thép tấm, thép
chế tạo ... vẫn phải nhập khẩu gần như 100% khiến cho không chỉ ngành thép
mà các ngành công nghiệp khác như công nghiệp đóng tàu, công nghiệp
ô tô, công nghiệp chế tạo máy cũng yếu ớt và hầu như không có khả năng
cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại được sản xuất tại nước ngoài ngay trên
sân nhà.
Việt Nam đã là thành viên của WTO, việc phải cạnh tranh với các sản
phẩm ngoại nhập là không thể tránh khỏi. Vì vậy, làm thế nào để nâng cao
6
năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam, đưa ngành công nghiệp sản
xuất thép lên một tầm cao mới đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với các sản
phẩm cùng loại từ nước ngoài đồng thời có thể hướng ra xuất khẩu đã trở
thành một yêu cầu lớn cần phải có lời giải.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước tình hình khó khăn của ngành thép cùng với yêu cầu phát triển đồng
bộ của ngành làm điểm tựa cho các ngành công nghiệp khác như công nghiệp
đóng tàu, công nghiệp xây dựng, công nghiệp chế tạo máy tháng 3 năm 1995 Bộ
Chính Trị đã thông qua “Chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam đến năm
2010” trong đó nêu rõ những nhiệm vụ mà ngành thép Việt Nam cần đạt được
trong quá trình từ năm 1995 đến 2010. “Báo cáo nghiên cứu thị trường thép
xây dựng tại Việt Nam” của Công ty tư vấn thiết kế và dịch vụ đầu tư
(INFISCO)-Bộ công nghiệp cũng đã chỉ ra tiềm năng phát triển của ngành đồng
thời cũng đưa ra được những tồn tại, hạn chế mà ngành thép Việt Nam đang gặp
phải. Trong nghiên cứu “Xây dựng chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam”
tác giả Phạm Chí Cường (Chủ tịch hiệp hội thép Việt Nam) cũng đã nêu ra một
số những kiến nghị với mục tiêu xây dựng một hướng đi mới cho ngành thép
Việt Nam. Hai tác giả Kenichi Ohno - Nguyễn Văn Thường, (2005), “Hoàn
thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam”, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội cũng đặt những vấn đề nhằm xây dựng hướng đi chung cho ngành công
nghiệp Việt Nam trong đó ngành công nghiệp sản xuất thép được đề cập tới như
là một động lực của ngành sản xuất ô tô xe máy.
Trong chừng mực nhất định, các công trình nói trên đã đề cập đến
những cơ sở lý luận và thực tiễn của ngành Thép Việt Nam ở một số khía
cạnh và mức độ khác nhau, giúp tác giả có thể tham khảo những quan điểm,
nhận thức chung về lý luận và nhiều số liệu cần thiết trong quá trình thực hiện
luận văn. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một
7
cách toàn diện và hệ thống, nhất là trên giác độ kinh tế chính trị về vấn đề
nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam.
Từ những lý do trên em quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho mình là:
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam”
3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành
thép Việt Nam, đồng thời thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước
trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép, luận văn chỉ ra được
những nguyên nhân cơ bản khiến cho khả năng cạnh tranh của ngành thép
Việt Nam luôn ở tình trạng yếu hơn so với các đối thủ nước ngoài qua đó đề
xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy ngành thép Việt Nam phát triển tăng
sức cạnh tranh của sản phẩm thép tại thị trường trong nước và từng bước
hướng đến việc xuất khẩu sản phẩm thép Việt Nam ra nước ngoài.
Từ những kết quả nghiên cứu, luận văn cố gắng xây dựng kế hoạch
tổng thể phát triển qui hoạch toàn ngành thép nhằm định hướng cho các đối
tác trong và ngoài nước tiếp cận và phát triển ngành thép.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá những cở sở làm
tiền đề cho sự phát triển của ngành thép Việt Nam. Đồng thời, phân tích thực
trạng của ngành thép Việt Nam, những khó khăn đang gặp phải qua đó tìm ra
nguyên nhân của những vấn đề này từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam.
Luận văn còn nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ thép của một số
nước trong khu vực và trên thế giới qua đó đưa ra những dự báo về xu thế
phát triển của ngành đồng thời đúc rút những kinh nghiệm thực tế làm bài học
cho sự phát triển ngành.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
8
Luận văn sử dụng phương pháp của kinh tế chính trị Mác-Lênin; phương
pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, và khảo sát thực tế; đồng thời sử
dụng các quan điểm đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Kết hợp giữa cái chung và cái riêng dựa trên các số liệu trong nước và
thế giới đã tổng kết.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ hơn thực trạng của ngành thép Việt Nam, những khó khăn
đang gặp phải từ đó nêu ra được nguyên nhân của những khó khăn đó.
- Đưa ra những dự báo xu hướng và kiến nghị các giải pháp thúc đẩy
ngành thép Việt Nam phát triển tăng sức cạnh tranh của ngành thép Việt Nam
tại thị trường trong nước và từng bước hướng ra xuất khẩu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của ngành
trong nền kinh tế.
Chương 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam.
Chương 3: Những định hƣớng mới và các giải pháp nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của nghành thép Việt Nam
9
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ
1.1 . Lý luận chung về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
Có thể nói cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Ngày
nay có lẽ không ai còn nghi ngờ về sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị
trường ở nước ta vì vậy cạnh tranh đã được nhìn nhận như là một động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế. Cạnh tranh cũng chỉ diễn ra khi được pháp luật
thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi có tự do hoá
thương mại và theo đó là tự do kinh doanh và quyền tự chủ của các cá nhân
được thừa nhận và bảo đảm. Cạnh tranh chỉ xuất hiện khi không có độc quyền
dưới bất kỳ hình thức nào. Tất cả những tiền đề đó đã hình thành ở nước ta từ
khi chuyển sang cơ chế thị trường và từ khi đảng và Nhà nước ta chủ trương
thúc đẩy kinh tế phát triển.
Cạnh tranh, nói chung là sự phấn đấu vươn lên không ngừng để giành
lấy vị trí hàng đầu nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu
quả cao nhất.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ
không có phát triển. Đó là quy luật tồn tại của muôn loài.
Trong kinh tế cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ
sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ) bằng các phương pháp và biện pháp khác
nhau như kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quân sự, tâm lý xã hội. Biện pháp kỹ
thuật là áp dụng công nghệ hiện đại, máy móc thiết bị tiên tiến, công nhân có
trình độ lành nghề cao; biện pháp kinh tế như trợ cấp tài chính, bảo hộ, cho
10
vay ưu đãi, bán phá giá …; biện pháp chính trị – kinh tế là dùng áp lực chính
trị để buộc đối phương phải nhượng bộ hoặc một điều kiện thương mại nào đó
có lợi cho mình; biện pháp quân sự như gây chiến tranh cục bộ hoặc chiến
tranh thế giới để gây ảnh hưởng và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong cạnh tranh nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có
khả năng cạnh tranh hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm
có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh
tranh hay sức cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khă năng sản phẩm đó tiêu thụ
được nhanh trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng thị
trường. Hay nói cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng
thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào
chất lượng của nó, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người
bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán, …
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành là khả năng doanh
nghiệp đó, ngành đó tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng
suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra
thu nhập cao và phát triển bền vững. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, của ngành người ta dựa nhiều vào tiêu chí: thị phần, doanh thu,
lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận, thu nhập bình quân, phương pháp quản lý, bảo
vệ môi trường, uy tín của doanh nghiệp đối với xã hội, tài sản của doanh
nghiệp nhất là tài sản vô hình, tỉ lệ công nhân lành nghề, tỉ lệ đội ngũ quản lý
giỏi, nghiên cứu và sáng tạo, … Những yếu tố đó tạo cho doanh nghiệp,
ngành có lợi thế cạnh tranh, tức là tạo cho doanh nghiệp khả năng triển khai
các hoạt động với hiệu suất cao hơn các đối thủ cạnh tranh, tạo ra giá trị cho
khách hàng dựa trên sự khác biệt hoá trong các yếu tố của chất lượng hoặc chi
phí thấp hoặc cả hai.
11
Lý thuyết cạnh tranh suất hiện từ nửa sau thế kỷ XVIII, xuất phát từ “tự
do kinh tế” mà Adam Smith đã phát hiện. Nhờ cạnh tranh mà xã hội loài
người ngày càng phát triển về mọi mặt. Cạnh tranh kích thích lòng tự hào, ý
chí vươn lên, ham muốn làm giàu, ham muốn khám phá cái mới, nhờ đó mà
thúc đẩy khoa học – kỹ thuật phát triển, làm cho mọi ngành kinh tế, mọi
doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn
phát triển ra phạm vi toàn cầu (mà người ta gọi là các công ty đa quốc gia).
Nhiều doanh nghiệp (nói riêng) và nhiều tổ chức (nói chung) của một
quốc gia có năng lực cạnh tranh thì quốc gia đó sẽ có năng lực cạnh tranh.
Hiện nay chưa có một định nghĩa nào về năng lực cạnh tranh được mọi người
công nhận. Theo M.Porter – người từng làm việc trong hội đồng cố vấn bên
cạnh tổng thống Mỹ: Không có một định nghĩa nào về năng lực cạnh tranh
được thừa nhận một cách phổ biến. Đối với các lãnh đạo doanh nghiệp năng
lực cạnh tranh có nghĩa là sức cạnh tranh trên thị trường thế giới nhờ áp dụng
chiến lược toàn cầu mà có được. Đối với nhiều nghị sĩ quốc hội sức cạnh
tranh là xuất siêu trong ngoại thương. Đối với một số nhà kinh tế học, sức
cạnh tranh là giá thành thấp của đơn vị sức lao động dựa vào điều chỉnh hối
suất. Cuộc tranh luận về sức cạnh tranh cho tới những năm 90 của thế kỷ XX
vẫn diễn ra sôi nổi và có phần gay gắt. Trên cơ sở đó, OECD đưa ra định
nghĩa sau: “Năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên
cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp, các
ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Hội đồng cạnh tranh của Mỹ đề nghị định nghĩa: Sức cạnh tranh là
năng lực kinh tế về hàng hoá và dịch vụ của một nền sản xuất có thể vượt qua
thử thách trên thị trường thế giới trong khi mức sống của dân chúng có thể
được nâng cao một cách vững chắc, lâu dài.
12
Trong từ điển thuật ngữ chính sách thương mại: “Sức cạnh tranh là
năng lực của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia không bị doanh
nghiệp khác, ngành khác đánh bại về năng lực kinh tế”.
Nhiều học giả cho rằng mục tiêu chủ yếu của các quốc gia là tạo mức
sống ngày càng cao cho nhân dân, còn làm được việc này thì không phải do
năng lực cạnh tranh quyết định mà do năng suất sử dụng tài nguyên hoặc lực
lượng sản xuất của quốc gia ấy quyết định.
Mặc dù có sự khác nhau giữa các định nghĩa trên song hàm nghĩa cơ bản
là như nhau, tức năng lực cạnh tranh quốc gia là năng suất của mỗi nước được
phản ánh thông qua sản phẩm của họ được tiêu thụ trên thị trường thế giới.
1.1.1.1 Quan niệm về cạnh tranh trước nửa đầu thế kỷ XX
Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tự do kinh tế phát triển ở Anh với lý
thuyết của Adam Smith và David Ricardo. Lý thuyết này chủ yếu đưa ra nguyên
tắc thuế hợp lý và làm rõ chức năng kinh tế của nhà nước trong điều kiện kinh tế
thị trường tự do, chỉ rõ cơ chế vận hành của thị trường tự do và hiệu quả của cơ
chế đó là làm cho dân giàu nước mạnh. Các học thuyết trong giai đoạn này đề
cao tự do cạnh tranh, đề cao lợi ích cá nhân. Smith cho rằng phát triển tự do trao
đổi hàng hoá sẽ tăng cường sự phân công lao động mà mức độ phân công thì do
thị trường quyết định. Cạnh tranh sẽ làm cân bằng cung – cầu, làm cho sự phân
phối tài nguyên được hợp lý, làm cho sản phẩm ngày càng tốt và giá rẻ. Lý
thuyết này khẳng định rằng muốn cạnh tranh phát triển, Nhà nước phải đề ra các
chính sách thích hợp để khuyến khích kinh doanh phát triển ở cả thị trường trong
và ngoài nước, nhưng Nhà nước không nên can thiệp sâu vào cạnh tranh, chỉ nên
tạo điều kiện cho cạnh tranh phát triển.
Tư tưởng lợi thế cạnh tranh là đóng góp quan trọng của David Ricardo.
Mỗi quốc gia, mỗi ngành có những lợi thế về tài nguyên khác nhau. Mói
ngành, mỗi nước tuỳ vào khả năng của mình mà sản xuất và bán những sản
13
phẩm mà mình có lợi thế hơn và mua cái mà mình không sản xuất được hoặc
sản xuất với giá đắt hơn. Nội dung của lý thuyết lợi thế so sánh là các nước
lựa chọn mặt hàng để chuyên môn hoá sản xuất theo công thức: chi phí sản
xuất mặt hàng A của nước đó so với thế giới nhỏ hơn chi phí sản xuất mặt
hàng B của nước đó so với thế giới. Thông qua ngoại thương các nước bù đắp
cho nhau, làm cho năng suất lao động ở mỗi nước tăng lên, chi phí giảm
xuống. Đó cũng là yếu tố cơ bản làm tăng cạnh tranh.
Cả A. Smith và D.Ricardo cũng nêu lý thuyết về thuế khoá. Thuế cần
thiết cho chi tiêu của chính phủ và xây dựng đất nước. Thuế cũng có thể thúc
đẩy sản xuất, phát triển xuất nhập khẩu, nhưng cũng có thể có tác dụng ngược
lại. Chính vì vậy cần phải có chính sách thuế hợp lý, khoa học. Hai ông cũng
phân biệt rõ giá trị và giá trị sử dụng chứa đựng trong sản phẩm và đó cũng là
yếu tố quan trọng quyết định tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Đến Karl Marx, lý luận cạnh tranh của ông phát triển ở tầm cao hơn,
gồm cạnh tranh về giá trị thặng dư, cạnh tranh chất lượng và cạnh tranh giữa
các ngành. Ba mặt đó diễn ra xoay quanh giá trị. Karl Marx đã chỉ ra tính hai
mặt của lao động là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ thể
bảo tồn và di chuyển giá trị cũ (c) vào trong giá trị mới, lao động trừu tượng
tạo ra giá trị mới (v+m). Từ đó Marx chỉ ra cơ cấu chuyển hoá giá trị thặng dư
thành lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoấthnhf giá cả sản xuất trong điều
kiện tự do cạnh tranh.
Trong cuốn “Tóm tắt phê phán kinh tế chính trị học”, Engels cũng
nghiên cứu vấn đề cạnh tranh. Ông nói, địa tô, lợi nhuận, tiền lương phụ thuộc
vào cạnh tranh. Cạnh tranh sinh ra độc quyền, độc quyền lại làm cho cạnh
tranh càng sâu sắc hơn. Điều đó rất đúng với tình hình kinh tế thế giới cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Lênin đã chỉ ra tính qui luật tất yếu của việc
chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền.
14