Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

(Luận Văn Thạc Sĩ) Tu Tập Của Tu Nữ Phật Giáo Nam Tông Kinh Hiện Nay.pdf
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÝ HỒNG TUYỀN
(Thích Nữ Viên Giác)
TU TẬP CỦA TU NỮ
PHẬT GIÁO NAM TÔNG KINH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÝ HỒNG TUYỀN
(Thích Nữ Viên Giác)
TU TẬP CỦA TU NỮ
PHẬT GIÁO NAM TÔNG KINH HIỆN NAY
Ngành: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 8.22.90.09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH NAM
(Thượng Tọa Thích Đồng Bổn)
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lý Hồng Tuyền (Thích nữ Viên Giác), ngƣời thực hiện luận văn
này. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chƣa đƣợc ai công bố trong bất
cứ công trình nào khác. Những trích dẫn cần thiết trong luận văn đƣợc tôi chú
thích rõ ràng và trung thực.
Tác giả luận văn
Lý Hồng Tuyền
(Thích Nữ Viên Giác)
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là thành quả của quá trình học tập, nghiên cứu của học
viên tại Khoa Tôn giáo học - Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện Khoa học Xã
hội, nhà trƣờng đã tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập và
nghiên cứu tại đây.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo, những ngƣời
phụ trách khoa Tôn giáo học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trƣờng.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thành Nam (Thƣợng tọa Thích
Đồng Bổn), thầy hƣớng dẫn. Thầy đã tận tình chỉ dạy, truyền đạt cho tôi
nhiều kiến thức, kinh nghiệm có giá trị, giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả những bạn bè, huynh đệ đồng học,
những ngƣời đã gắn bó và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng nhƣ trong
quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin đƣợc cảm ơn gia đình và những ngƣời thân đã tạo
điều kiện để tôi yên tâm học tập trong suốt thời gian qua.
Chân thành tri ân!
Học viên
Lý Hồng Tuyền
(Thích Nữ Viên Giác)
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NI ĐOÀN PHẬT GIÁO
NAM TÔNG
20
1.1. Các khái niệm liên quan 20
1.2. Tiền đề cho sự ra đời Ni đoàn Phật giáo Nam tông 21
1.3. Sự ra đời và phát triển của Ni đoàn 27
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TU TẬP CỦA TU NỮ PHẬT GIÁO
NAM TÔNG KINH HIỆN NAY
37
2.1. Nền tảng tu tập của Tu nữ Phật giáo Nam tông Kinh 37
2.2. Tƣơng quan tu tập giữa Tu nữ Phật giáo Nam tông Kinh
với Ni giới hệ phái khác
50
2.3. Những tác nhân ảnh hƣởng đến tu tập của Tu nữ Nam tông
Kinh hiện nay
57
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TU TẬP CỦA TU NỮ
NAM TÔNG KINH
65
3.1. Một số nhận xét 65
3.2. Khuyến nghị và giải pháp 71
KẾT LUẬN 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TNNT : Tu nữ Nam tông
TNPGNT : Tu nữ Phật giáo Nam tông
PGNT : Phật giáo Nam tông
GHPGVN : Giáo hội Phật giáo Việt Nam
PGNTVN : Phật giáo Nam tông Việt Nam
TK : Tỳ kheo
TKN : Tỳ kheo ni
TCN : Trƣớc công nguyên
SCN : Sau công nguyên
ÂL : Âm lịch
ĐH : Đại hội
GH : Giáo hội
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, vị thế của ngƣời phụ nữ không đƣợc xem
trọng. Mặc dù, một số nghiên cứu gần đây có khẳng định vai trò của ngƣời
phụ nữ Ấn Độ thời Cổ đại đƣợc đề cao [102], song không thể phủ nhận, dƣới
chế độ đẳng cấp Bà la môn, vị thế của phụ nữ Ấn Độ bị xem thƣờng, nếu
không nói là chịu rất nhiều những áp chế hà khắc. Tại đó, ngƣời nam đƣợc
xem nhƣ chúa tể, ngƣời nữ đƣợc xem là tôi tớ [103].
Trong điều kiện lịch sử đó, Phật giáo xuất hiện đƣa vị thế của ngƣời phụ
nữ bƣớc sang một trang sử mới với khẳng định phụ nữ có thể làm chủ cuộc sống
và hạnh phúc của mình trong xã hội, thậm chí có thể tự mình giải phóng ra khỏi
ngục tù của đời sống chật hẹp, tiến thẳng Niết bàn, an lạc, vĩnh cửu [104]. Lần
đầu tiên trong lịch sử các tôn giáo, Ni đoàn đƣợc thiết lập, ở đó nữ giới tu tập
theo giới, luật để tự mình đi trên con đƣờng giải thoát, tìm cầu chân hạnh phúc.
Lịch sử Phật giáo ghi lại, sau khi Tôn giả A Nan khẩn cầu ba lần, Đức Phật
chấp thuận cho nữ giới dự vào hàng ngũ xuất gia - ngƣời đầu tiên là Mahāpajāpatī
với điều kiện tôn thờ suốt đời Tám trọng pháp. Từ đó, Ni đoàn đƣợc hình thành
gắn liền với Tám trọng pháp. Trƣớc khi Đức Phật vào Niết bàn, Trƣởng lão Ni
Mahāpajāpatī Gotamī lãnh đạo năm trăm vị A la hán Ni xin phép nhập Niết bàn
trƣớc. Sau sự kiện này, Ni giới bị xem nhƣ là “củi hết lửa tắt” trên phƣơng diện
truyền thừa. Từ đó, hình ảnh Tỳ kheo ni vắng bóng trên bƣớc đƣờng hoằng hóa
của Tăng đoàn Nam tông tại một số nƣớc có truyền thống Phật giáo Nguyên thủy.
Mãi đến thời đại Vua Asoka (khoảng năm 247 TCN), Tỳ kheo ni
Sanghamitta đến Sri Lanka hoằng pháp và phục dựng Ni đoàn trên phạm vi rộng,
sang cả các nƣớc lân cận. Đến thế kỷ thứ V sau Công nguyên, Ni giới Trung Quốc
tiếp nhận giới pháp từ một phái đoàn Ni giới Sri Lanka truyền sang. Sau đó, do
nhiều yếu tố chính trị, xã hội tác động, hình thức Tỳ kheo ni Nguyên thủy chuyển
sang hình thức Tỳ kheo ni Bắc tông với dòng truyền thừa không ngừng.
2
Tuy nhiên, trên phƣơng diện hình thức tổ chức, các Luật sƣ bảo thủ của
Phật giáo Nam tông, y cứ vào Tám trọng pháp cho rằng, Tỳ kheo ni phải đƣợc
truyền giới từ hai bộ Tăng, Ni của Phật giáo Nguyên thủy, với nghi thức đƣợc
thực hiện bằng tiếng Pāli. Ngoài cách thức nhận lãnh giới pháp duy nhất này,
ngƣời nữ xuất gia sẽ không đƣợc thừa nhận là Tỳ kheo ni. Vì thế, nữ giới chỉ
đƣợc phép dự vào hàng ngũ xuất gia với danh xƣng Tu nữ, hành trì tám giới
hoặc mƣời giới và Tám trọng pháp, không đƣợc phép thọ lãnh giới pháp Tỳ
kheo ni nhƣ thời Đức Phật.
Đó là lý do Phật giáo Nguyên thủy ở một số quốc gia chỉ tồn tại hình
thức Tỳ kheo và Tu nữ, không có Tỳ kheo ni.
Tuy nhiên, theo dòng lịch sử, vẫn có một số quốc gia theo Phật giáo
Nguyên thủy có tƣ tƣởng cấp tiến muốn phục hoạt hình ảnh Tỳ kheo ni thông
qua những Tỳ kheo ni thừa kế dòng truyền thừa từ Sri Lanka đến Trung Quốc
vào thế kỷ thứ V nhƣ Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Ấn Độ… Song, nhu cầu
này hiện đang vấp phải những phản ứng trái chiều từ các phía về việc thừa nhận
hay không tổ chức Giáo đoàn Tỳ kheo ni, mặc dù trên thực tế, hình thức tu tập
Tỳ kheo ni vẫn đang tồn tại ở một số các quốc gia. Về cơ bản, hầu hết đều không
thừa nhận tổ chức Giáo đoàn Tỳ kheo ni trên phƣơng diện chính thống với lý do
cho rằng, sau khi Trƣởng lão Ni Mahāpajāpatī Gotamī và năm trăm vị A la hán
Ni nhập Niết bàn thì cũng có nghĩa, truyền thừa của hệ phái này cũng chấm dứt.
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Tại Việt Nam, Phật giáo hệ phái
Nam tông trong hệ thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng không thừa nhận
Giáo đoàn Tỳ kheo ni bởi lý do lịch sử nhƣ đã phân tích ở trên.
Thứ nữa, về mặt lịch sử nghiên cứu, từ khi du nhập cho đến nay, Ni giới
Việt Nam nói chung, Tu nữ Nam tông nói riêng, có vị trí khá khiêm tốn trong các
tài liệu nghiên cứu. Trong khi Ni giới hệ phái Bắc tông và Khất sĩ đã có những
công trình nghiên cứu khá đầy đủ; thì Tu nữ Nam tông Kinh1
chỉ đƣợc đề cập mờ
nhạt thông qua một số tƣ liệu nghiên cứu của hệ phái Phật giáo Nguyên thủy.
1 Kinh: dân tộc Kinh (từ đây, xin đƣợc gọi tắt TNNT Kinh)
3
Sở dĩ có thể so sánh vai trò của Tu nữ Nam tông Kinh với Ni giới hệ
phái Bắc tông, Khất sĩ nhƣ trên là căn cứ vào thực tiễn hoạt động Phật sự của
hai hệ phái này trong hiện thực hoằng pháp, lợi sinh. Trong thời kỳ hiện đại,
nếu Ni giới hệ phái Bắc tông, Khất sĩ tham gia tích cực vào việc trang nghiêm
đạo pháp và dân tộc trên mọi lĩnh vực thì hoạt động của Tu nữ Phật giáo Nam
tông còn khá khép kín. Chính vì thế, sự ảnh hƣởng, lan tỏa của Tu nữ Nam
tông bị hạn chế đối với trong và ngoài đạo.
Đi tìm hiểu lý do dẫn đến hoạt động hoằng pháp, lợi sinh của Tu nữ
Nam tông bị hạn chế, chúng tôi nhận thấy ngoài nguyên nhân chủ quan thì
còn một yếu tố nữa không kém phần quan trọng, thậm chí, xét ở một phƣơng
diện nhất định còn đóng vai trò thúc đẩy hay hạn chế hoạt động Phật sự của
Tu nữ Phật giáo Nam tông. Đó là, nhƣ trên đã nói, hiện nay tại Việt Nam Tu
nữ Nam tông chƣa đƣợc thừa nhận nhƣ một tổ chức Giáo đoàn Tỳ kheo ni.
Với việc không/chƣa đƣợc thừa nhận nhƣ một tổ chức chính thống trong Giáo
hội và Giáo đoàn tất yếu sẽ hạn chế việc tiếp xúc, mở rộng phạm vi, địa bàn
hoạt động Phật sự của Tu nữ Nam tông, đặc biệt sẽ không/chƣa khai thác
năng lực tu tập và hoằng pháp, lợi sinh của Tu nữ hệ phái Nam tông với tƣ
cách là một tổ chức chính thống.
Từ những phân tích trên, cho thấy có hai vấn đề liên quan đến hệ phái
Tu nữ Nam tông chƣa/cần đƣợc giải quyết: một là, cần có những nghiên cứu
chuyên sâu về đoàn thể Tu nữ Phật giáo Nam tông Kinh tại Việt Nam hiện
nay; hai là, ở Việt Nam, về Ni giới có ba hệ phái đang tồn tại và phát triển
gồm: Ni giới hệ phái Bắc tông, Khất sĩ và Tu nữ Phật giáo Nam tông - ba bộ
phận này luôn song vận tạo nên tiến trình lịch sử Ni lƣu của Phật giáo Việt
Nam. Ngoài hai hệ phái Bắc tông và Khất sĩ, để phát huy vai trò của Tu nữ
Phật giáo Nam tông Kinh, cần thiết có sự xem xét, thừa nhận về mặt tổ chức
vị trí và vai trò của Tu nữ Nam tông Kinh trong Giáo hội nói chung, Giáo
đoàn Nam tông Kinh nói riêng.
4
Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “TU TẬP CỦA TU NỮ
PHẬT GIÁO NAM TÔNG KINH HIỆN NAY” để làm đối tƣợng nghiên cứu
của luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Nghiên cứu trực tiếp đến Ni đoàn và Tu nữ
2.1.1. Các công trình trong nước
Nhiều tác giả (2016), Nữ giới Phật giáo Việt Nam: Truyền thống và
hiện đại, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh [37]. Gồm 68 bài
viết, trong đó đƣợc chia thành ba phần:
Phần một: Vấn đề nữ giới trong giáo lý tư tưởng, trong giới luật và
trong tổ chức Giáo hội Phật giáo từ nguyên thủy đến hiện đại (13 bài). Hầu
hết các bài viết dựa trên cơ sở Kinh Luật đƣa ra vai trò, vị trí, phẩm hạnh của
nữ giới trong Phật giáo. Đặc biệt, bài Ni đoàn Phật giáo Nguyên thủy từ
truyền thống đến hiện tại của Thƣợng tọa Thiện Minh, đề cập đúng hƣớng với
đề tài luận văn đang nghiên cứu. Bài viết trình bày tiến trình lịch sử khởi
nguồn Ni đoàn do Mahāpajāpatī Gotamī khẩn cầu ba lần, Đức Phật chấp nhận
với điều kiện gắn liền với Tám trọng pháp - đây là lý do mà các nhà nghiên
cứu tranh cãi về tinh thần bình đẳng trong Phật giáo.
Theo sự phát triển, Tám trọng pháp vẫn song hành cùng Ni đoàn truyền
sang các nƣớc. Trong quá trình tồn tại, do ảnh hƣởng bởi nhiều yếu tố lịch sử,
chiến tranh làm cho Ni đoàn bị gián đoạn, sau đó không đƣợc phục hồi. TKN
dần chuyển sang hình thức TNPGNT thọ tám giới và mƣời giới.
Hiện nay, tại một số quốc gia Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện… đã và
đang phục hồi TKN Nguyên thủy nhƣng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Tại
Việt Nam, ngoài hình thức Tu nữ, có các TKN thọ giới từ đại giới đàn các
nƣớc PGNT, trở về Việt Nam tu học và hoằng pháp, vẫn chƣa đƣợc
GHPGVN chấp nhận trên phƣơng diện pháp lý.
5
Bài viết trên đƣa ra một số kiến nghị cụ thể đề nghị chƣ Tăng PGNT
xem xét đề đạt lên Giáo hội theo đúng luật và nội quy Ban Tăng sự. Tác giả
kết luận: “Trong tứ chúng, TKN, Tu nữ là một bộ phận không thể tách rời
trong Giáo hội, nếu thiếu thì Giáo hội sẽ suy yếu.” [37, tr.19] với tầm quan
trọng đó, bài viết đƣa ra ba đề xuất, trong đó có những ý kiến thích hợp với
hƣớng nghiên cứu của luận văn dựa trên nhu cầu thực tiễn của Tu nữ, Sa di ni
và TKN PGNT tại Việt Nam. Để kiến nghị có cơ sở khoa học, luận văn tiến
thêm một bƣớc, làm sáng tỏ vấn đề “tính hợp pháp cho việc tái xuất gia TKN
của Nam tông” mà bài viết còn đang nghi vấn.
Phần hai: Vấn đề vai trò, vị thế và cống hiến của nữ giới Phật giáo trong
lịch sử Việt Nam (19 bài). Các bài viết tập trung những khai thác những thế mạnh
về phƣơng diện tu tập cũng nhƣ phƣơng diện xã hội của nữ giới Phật giáo.
Mỗi bài viết là một góc nhìn khác nhau về nữ giới Phật giáo, không chỉ
chuyên nhất nơi cửa thiền tu tập, mà còn vận dụng tài trí vào việc bảo vệ tổ
quốc, thể hiện tấm lòng bao dung, từ bi của nữ giới, chung tay góp sức trên
mọi lĩnh vực xây dựng chùa, giáo dục, từ thiện, văn hóa…
Phần ba: Nữ giới Phật giáo Việt Nam trong đời sống và trong công tác
xã hội hiện nay (36 bài). Số lƣợng bài khá nhiều, nhấn mạnh đến tầm ảnh
hƣởng của Ni giới trong thời đại hội nhập và phát triển. Đáng lƣu ý, bài “Ni
đoàn Tỳ kheo ni Nam tông Việt Nam” của (TKN) Liễu Pháp. Nội dung bài
viết tƣơng thích với đề tài luận văn, cung cấp những thông tin cần thiết liên
quan đến TNPGNT Kinh hiện nay.
Bài viết giới thiệu “Ni giới Nam tông Việt Nam hiện nay có hai hình
thức: hình thức Tu nữ thọ tám giới và hình thức Tỳ kheo ni thọ 311 giới.” [37,
tr.642]. Kế đến sơ lƣợc về lịch sử hình thành TNNT Việt Nam do Tu nữ Diệu
Đáng khởi xƣớng, tồn tại song hành với chƣ Tăng PGNT với vai trò là ngƣời
hộ Tăng, lãnh thọ tám giới, tu học tuân thủ theo sinh hoạt chùa Tăng, đƣợc
công nhận Tu nữ dƣới sự quản lý của Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt
6
Nam (trƣớc năm 1981). Năm 1981, GHPGVN thành lập, PGNT trở thành một
thành viên của Giáo hội, TNNT bị lãng quên, không đƣợc chấp nhận nhƣ các
nữ tu sĩ các hệ phái khác. Năm 2015, Giáo hội cấp giấy Chứng nhận Tu nữ,
công nhận sự hiện hữu của Tu nữ là một thành viên của Ni giới Việt Nam,
nhƣng hình thức Sa di ni - TKN vẫn chƣa chấp nhận.
Kế đến, bài viết trình bày về TKN Nam tông tại Việt Nam, với sự trợ
duyên rất nhiều từ nội bộ PGNT, cho đến các Hội phụ nữ Phật giáo quốc tế,
Tu nữ Việt Nam đƣợc thọ TKN ở nƣớc ngoài. Từ năm 2002 đến 2016, có 6
nhóm Tu nữ (18 TKN) đƣợc thọ TKN tại các nƣớc Ấn Độ, Sri Lanka,
Indonesia. Hoàn tất việc thọ giới Cụ túc, các TKN trở về Việt Nam tu học và
hoằng pháp. Với nhu cầu này, các Ni viện TKN Nam tông đƣợc tách độc lập,
tạo điều kiện thuận lợi cho các TKN sinh hoạt tu tập. Bên cạnh những thuận
lợi đƣợc sự đồng thuận (mặc dù chƣa cao) từ chƣ Tăng PGNT, chƣ Ni các hệ
phái khác, sự hỗ trợ đắc lực từ Ni đoàn TKN Nam tông các nƣớc Sri Lanka,
Indonesa, Thái Lan và tổ chức Hiệp hội TKN Nam tông Á Châu. TKN Nam
tông Việt Nam vững chãi trƣớc những khó khăn hiện tại để đƣợc công nhận
TKN đúng pháp ở tƣơng lai.
Tác giả Liễu Pháp - là một trong bốn Tu nữ đầu tiên đƣợc thọ TKN tại
Sri Lanka, đã nêu lên những điểm chính về TNPGNT, bên cạnh đó thể hiện
đƣợc nguyện vọng của Tu nữ trở thành TKN đúng pháp là thật sự cần thiết.
Thế nhƣng, làm thế nào để minh định cho Tu nữ trở thành một TKN đúng
pháp? Đó là cả một quá trình nghiên cứu về sinh hoạt tu tập của Tu nữ, từ nền
tảng tu tập gồm đủ giáo thuyết và hành trì đậm tính truyền thống PGNT; đối
sánh sự tƣơng quan giữa các hệ phái khác để nổi bật nét đặc trƣng của TNNT;
sự ảnh hƣởng qua lại giữa các yếu tố bên ngoài và nội tại tâm thức… Từ đó
luận văn mới đầy đủ cơ sở khoa học, chứng minh tu tập của TNPGNT hiện đã
hội tụ những điều kiện “cần và đủ” để trở thành TKN hợp pháp. Đây là chính
là mục tiêu mà luận văn hƣớng tới.