Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

(Luận Văn Thạc Sĩ) Nghiên Cứu, Đề Xuất Giải Pháp Công Trình Hợp Lý Cho Kè Bờ Tả Sông Lam.pdf
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sạt lở bờ sông, xói, bồi lòng sông là hiện tượng tự nhiên nằm trong quy luật
vận động của dòng sông - đây là hiện tượng đã, đang và sẽ còn diễn ra. Tuy nhiên,
do sự biến đổi khí hậu toàn cầu, thời tiết diễn biến bất thường theo chiều hướng cực
đoan và các tác động của con người, sạt lở, xói bờ sông đã trở thành hiện tượng
thiên tai, đe doạ đến an toàn đê điều, đe doạ đến tính mạng tài sản nhân dân.
Sông Cả là một lưu vực lớn ở vùng Bắc Trung Bộ, có diện tích lưu vực
27.200 km2 phân bố trên lãnh thổ 2 quốc gia: Việt Nam và CHDCND Lào. Ở Việt
Nam sông Cả nằm trên địa giới hành chính của 3 tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh
Hoá. Phần lưu vực sông Cả và vùng chịu ảnh hưởng của lũ sông Cả thuộc địa phận
tỉnh Nghệ An có diện tích khoảng 15.030 km2 chiếm trên 55% diện tích toàn lưu
vực, với dân số hiện nay khoảng 2,1 triệu dân sinh sống từ đồng bằng, trung du đến
miền núi và có 8 dân tộc anh em sinh sống, trong đó 90% dân tộc Kinh.
Sông Cả là con sông quan trọng nhất cung cấp nguồn nước cho các hoạt
động kinh tế xã hội của tỉnh Nghệ An và tạo nên những vùng đất màu mỡ cho phát
triển nông nghiệp. Có thể nói đây là một tài nguyên rất quan trọng trong đời sống
xã hội và là cơ sở vật chất để phát triển kinh tế tỉnh Nghệ An nói riêng và các tỉnh
khác nằm trong lưu vực nói chung. Tuy nhiên sông Cả cũng gây không ít thiệt hại
cho nền kinh tế của tỉnh. Những trận lũ lớn xảy ra vào các năm 1978, 1988, 2002,
2007, 2010 đã gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế, xã hội trên lưu vực. Qua các
trận lũ gần đây cho thấy:
Mức độ ngập lụt ngày càng tăng, lũ xảy ra ngày càng lớn và rất phức tạp.
Đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, của cải của dân nhiều nên khi bị
lụt, vỡ đê thiệt hại ngày càng tăng.
Hệ thống công trình phòng chống lũ chưa đủ đảm bảo an toàn, chắc chắn khi
gặp lũ lớn, nguyên nhân chính:
2
+ Các giải pháp công trình gia cố kè bờ sông chưa có hoặc chỉ mới có một số
đoạn chưa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
+ Đê hiện tại phân cấp chưa rõ ràng nên đê chưa chống được lũ theo thiết kế
và thậm chí lũ chính vụ hằng năm. Các tuyến đê được hình thành qua nhiều thời kỳ
và được đắp qua nhiều giai đoạn, lại được đắp trên nền đất tự nhiên không được xử
lý nên còn nhiều ẩn hoạ trong thân đê và móng đê khi có mưa lũ kéo dài, cần phải
đánh giá để sử dụng cho an toàn. Bề mặt mái đê và bãi trước đê chưa được bảo vệ
bằng các giải pháp mang tính kiên cố, hiện tượng sạt lở bờ sông và mái phía sông
của các đoạn đê diễn ra khá phổ biến hằng năm.
+ Nhiều tuyến còn thiếu về chiều cao, chưa đủ mặt cắt an toàn chống lũ.
Nhiều điểm nguy hiểm khi đê phải chịu mức nước lũ cao.
+ Hiện nay trên địa bàn tỉnh Nghệ An chưa có công trình lớn tham gia cắt lũ
cho hạ du các lưu vực sông.
Để có cơ sở khoa học phục vụ công tác xây dựng nâng cấp đê, kè của tỉnh
Nghệ An nói chung và kè bờ tả sông Lam nói riêng, việc nghiên cứu đề xuất giải
pháp công trình hợp lý cho từng vị trí xung yếu nhằm ổn định bờ bảo đảm an toàn
lâu dài cho đê, kè bờ tả sông Lam là yêu cầu cấp thiết từ thực tế đặt ra. Trong phạm
vi luận văn này, việc nghiên cứu tập trung vào đối tượng công trình chống sạt lở bờ
sông, mái ngoài đê.
2. Mục đích của đề tài.
Nghiên cứu tổng quan các giải pháp bảo vệ bờ sông và đánh giá sự phù hợp,
ưu nhược điểm của từng giải pháp.
Nghiên cứu hiện trạng, phân tích nguyên nhân sạt lở bờ tả sông Lam, phân
tích đánh giá các giải pháp công trình phù hợp nhằm đảm bảo ổn định bờ sông và
đề xuất giải pháp công trình hợp lý cho kè bờ tả sông Lam.
3
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu.
Kế thừa các nghiên cứu đã có, tổng hợp và ứng dụng, kế thừa các đánh giá
của các chuyên gia.
Phân tích hiện trường, hiện trạng, phân tích nguyên nhân dựa trên diễn biến
thực tế và phân tích các yếu tố tác động để cân nhắc trong lựa chọn giải pháp thích
hợp.
Nghiên cứu tổng quan lý thuyết và thực tiễn, ứng dụng vào phân tích và đánh
giá hiện trạng kè bờ tả sông Lam;
Ứng dụng khung phân tích Đa tiêu chí để đánh giá các giải pháp công trình
và lựa chọn giải pháp hợp lý trong công tác chống sạt lở bờ tả sông Lam.
Sử dụng mô hình toán SLOPE/W phân tích ổn định giải pháp lựa chon;
4. Kết quả dự kiến đạt được.
Đánh giá được hiện trạng, phân tích nguyên nhân các hư hỏng của hệ thống
đê, kè bờ sông tỉnh Nghệ An.
Phân tích được nguyên nhân và các yếu tố tác động đến hiện tượng sạt lở bờ
sông khu vực bờ tả sông Lam
Xây dựng bộ tiêu chí và khung đánh giá Đa tiêu chí, để đánh giá các giải
pháp công trình kè chống sạt lở bờ sông nói chung và hệ thống đê, kè bờ tả sông
Lam nói riêng.
Đề xuất các giải pháp và lựa chọn giải pháp công trình hợp lý nhằm đảm bảo
an toàn xói lở cho bờ sông, giảm nhẹ thiên tai do ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu
toàn cầu.
Kiến nghị giải pháp công trình hợp lý cho kè bờ tả sông Lam.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC GIẢI PHÁP CÔNG TRÌNH BẢO VỆ BỜ SÔNG
1.1. Tổng quan về công trình bảo vệ bờ sông
1.1.1. Một số đặc điểm chung
Là công trình nằm ở ven sông, nơi thường có địa chất nền yếu, chịu tác động
của mực nước và dòng chảy sông, thay đổi theo mùa và theo thời gian.
Công trình bảo vệ bờ sông được xây dựng, củng cố, duy tu, bảo dưỡng qua
các thời kỳ lịch sử.
Chịu nhiều yếu tố tác động của tự nhiên mang yếu tố ngẫu nhiên, bất định,
chịu các các tác động bất lợi do con người gây ra như: khai thác vàng, khai thác cát,
tác động của sóng do tàu thuyền đi lại trên sông.
1.1.2. Đê điều phòng chống lũ
Đê có nhiệm vụ ngăn nước lũ lụt vào mùa mưa, ngăn triều cường đối với các
vùng cửa sông ven biển, bảo vệ khu dân cư. Theo vành đai các tuyến bảo vệ, đê
được phân ra làm hai loại. Đê chính là tuyến đê bảo vệ vùng dân sinh kinh tế quan
trọng, loại đê này không cho phép nước tràn qua đỉnh đê. Đê bối là tuyến đê nằm
bên ngoài đê chính nhằm bảo vệ và tận dụng khai thác các bãi bồi, loại đê này cho
phép nước tràn qua đỉnh, mức độ bảo vệ thấp hơn đê chính.
1.1.3. Kè và công trình bảo vệ bờ
Kè có nhiệm vụ bảo vệ mái đê, mái dốc bờ sông, ổn định đường bờ, bảo vệ
bãi trước đê, có nhiều hình thức kè với kết cấu đa dạng, phong phú. Theo hình thức
kết cấu và vật liệu xây dựng, kè bảo vệ mái dốc có nhiều loại khác nhau. Mỗi loại
đều có ba phần chính, đó là chân kè, thân kè và đỉnh kè. Chân kè làm nhiệm vụ bảo
vệ chống xói ở chân mái dốc, thân kè bảo vệ phần mái dốc từ chân đến đỉnh kè,
đỉnh kè là phần bảo vệ đỉnh của mái dốc. Từng bộ phận phải đảm bảo điều kiện làm
việc ổn định trong quá trình chịu tác dụng của các tải trọng từ phía sông hoặc phía
đất thân đê hoặc bờ.
5
Kè bảo vệ mái dốc sử dụng các kết cấu từ đơn giản như trồng cỏ đến phức
tạp như bê tông lắp ghép tự chèn. Các hình thức thông dụng như đá đổ, đá xếp
khan, khối bê tông ghép rời, liên kết tự chèn tạo thành mảng.
1.1.4. Tình hình xây dựng đê kè ở Việt Nam
Hệ thống đê, kè ở nước là công trình đất vĩ đại, được xây dựng từ hàng ngàn
năm nay bằng sức lao động của nhân dân qua nhiều thời đại. Đê chủ yếu là đê đất,
vật liệu lấy tại chỗ và do người dân địa phương tự đắp bằng những phương pháp
thủ công. Hệ thống đê, kè biển hình thành là kết quả của quá trình đấu tranh với
thiên nhiên, mở đất của các thế hệ người Việt Nam đi trước.
Con đê đầu tiên được đắp từ thời Hai Bà Trưng, thế kỷ thứ nhất sau Công
nguyên. Đến đầu thế kỷ 11, Nhà Lý đã đắp đê bảo vệ Kinh thành Đại La (Thăng
Long- Hà Nội ngày ngay) để bảo vệ dân cư và sản xuất. Đến thế kỷ 13, thời Nhà
Trần, công cuộc đắp đê đã đạt được thành tựu lớn, đê sông Hồng đã nối dài từ Việt
Trì ra biển.
Trải qua nhiều thời kỳ, cho đến nay, hệ thống đê vẫn tồn tại và giữ vững. Hệ
thống đê vẫn là chiến lũy trên trận tuyến ngăn lũ, chống lụt bảo vệ tính mạng, tài
sản của cải của nhân dân các vùng đồng bằng. Theo thống kê năm 1986 cả nước có
5716 km đê sông và 2048 km đê biển. Hiện nay, trên cả nước có khoảng 8400 km
đê, trong đó có 6000 km đê sông và 2400 km đê biển.
1.1.5. Công tác xây dựng đê điều ở tỉnh Nghệ An qua các giai đoạn
Giai đoạn trước cách mạng tháng 8 năm 1945
Đê điều của Nghệ An đã được hình thành từ rất sớm, các công trình đê điều
được xây dựng nhiều bắt đầu từ năm 1928. Tuyến đê Tả Lam đoạn từ Nam Đàn đến
Bến Thuỷ được xây dựng từ năm 1928. Các công trình đê điều đã được xây dựng
không đồng bộ, không mang tính thống nhất, tính hệ thống mà chỉ được xây dựng
phục vụ cho việc phòng chống lụt bão cho một vùng, một địa phương. Quy mô,
kích thước của công trình đê điều ngày càng được nâng cấp theo yêu cầu của công
tác phòng chống lũ lụt, đời sống nhân dân. Chất lượng các công trình không đảm
6
bảo do việc đắp đê được tiến hành bằng thủ công. Tuyến đê được chú ý và quan
tâm đầu tư nhất là tuyến đê 42 từ Nam Đàn đến Bến Thuỷ, dưới tuyến đê này có rất
nhiều cống tiêu, khoảng từ 500m đến 2000m có một cống tiêu. Tuyến đê ngày càng
được nâng cấp, tôn cao, mở rộng và theo yêu cầu tiêu úng cho từng vùng thay đổi
nên các cống dưới đê ngày càng ít về số lượng.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
Thiệt hại do lụt bão gây ra: Trong thời kỳ này lụt, bão đã gây ra nhiều thiệt
hại về tính mạng và tài sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An, đã có 7 cơn bão và 13 trận lũ.
Đặc biệt là trận lũ năm 1954 đã gây nhiều thiệt hại về người, tài sản, cơ sở hạ tầng
cho nhân dân trong tỉnh. Khối lượng vỡ đê năm 1954:
- Đê 42: Nam Đàn + Hưng Nguyên: 60.766 m3
- Đê Cẩm Thái: 690 m3
- Đê Phượng Kỷ: 4.000 m3
- Đê Tràng Sơn vỡ hoàn toàn
Bảng 1.1. Thiệt hại do lũ lụt gây ra trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
TT Danh mục Đơn vị tính
Thời kỳ từ năm 1945
đến năm 1954
1 Số cơn bão đổ bộ vào Nghệ An cơn 7
2 Số cơn lũ lớn hơn báo động I cơn 13
3 Đê chính bị vở chỗ 162
4 Số cầu cống bị trôi cái 215
5 Người bị chết người 170
6 Người bị thương người 550
7 Nhà cửa, kho tàng, trường học cái 967
8 Thuyền bè bị đắm cái 32
7
TT Danh mục Đơn vị tính
Thời kỳ từ năm 1945
đến năm 1954
9 Diện tích đất bị úng nặng ha 63.293
10 Diện tích đất bị mất trắng ha 19.668
Sự hình thành các tuyến đê và công tác đắp đê:
Từ năm 1945, các địa phương trong tỉnh đã tiến hành phục hồi, sửa chữa các
tuyến đê cũ bị hư hỏng và xây dựng nhiều tuyến đê mới: Thực hiện việc đắp đê
ngăn mặn La Vân (xã Nghi Yên huyện Nghi Lộc với khối lượng 40.000m3
, năm
1948 đắp đê con Chạch trên đê 42 ở xã Hưng Long, Hưng Khánh huyện Hưng
Nguyên phục vụ cho công tác hộ đê; năm 1949 đã cũng cố đê Chính Môn, đắp đê
ngăn mặn Phú Lương, đắp đê ngăn mặn La Nham, đắp đê Quỳnh Tân, Quỳnh Yên,
cũng cố đê Quỳnh Phương huyện Quỳnh Lưu; 1950 làm mới một cống 2 cửa bằng
gỗ ở đê xã Tân Sơn. Năm 1951 chỉ tiêu đắp đê do dân công các huyện làm tự túc,
huyện Anh Sơn 1.100m3, huyện Yên Thành 8.700m3, huyện Diễn Châu 2.340m3,
huyện Quỳnh Lưu 2.454m3
Kết quả:
Đắp đê 42 đến hết năm 1954 là: 278.192 m3. Sau đó tiếp tục đắp các đê Cẩm
Thái, Đồng Văn, Nam Trung, Chợ Tràng, Bến Thủy, Hưng Phong. Số người đắp
8.581 người trên tuyến dài 60 km, khối lượng 554.836 m3 đất
Xây kè Nam Trung, Cẩm Thái, Chợ Vực, kết quả đá xây lát 10.102 m3.
Xây cống Văn Viên, Mỹ Dụ, Hưng Hòa, Hưng Lợi và nối cống Đồng Văn
với 386 m3 bê tông vượt mức 115% kế hoạch - Theo báo cáo của Trưởng ty Công
chánh Nghệ An đến ngày 3/10/1954 đã hoàn thành toàn bộ khối lượng trên.
Ước tính theo thống kê chưa đầy đủ khối lượng xây dựng công trình đê điều
từ năm 1945 đến 1954:
Đất: 854.037 m3
8
Đá: 10.102 m3
Bê tông: 386 m3
Việc xử lý 20 chỗ vỡ của đê 42: Trận lũ năm 1954 đã gây vỡ 20 đoạn thuộc
đê 42, các vị trí vỡ lớn là đoạn đê thuộc khu vực đền Vua Lê xã Hưng Khánh, chợ
Liễu xã Hưng Lĩnh, đoạn đê thuộc xã Hưng Xuân, xã Hưng Lam huyện Hưng
Nguyên và đoạn đê Bàu Sen huyện Nam Đàn. Để xử lý, hàn gắn các đoạn đê đã bị
vỡ thuộc đê 42, nhân dân tỉnh Nghệ An nhất là nhân dân vùng Hưng Nguyên, Nam
Đàn, Thành phố Vinh đã huy động sức người, sức của để thực hiện việc đắp đê.
Chính quyền tỉnh Nghệ An đã tranh thủ sự ủng hộ của nhà nước, sự đóng góp công
sức của Bộ đội Miền Nam tập kết ra Bắc (theo hiệp định Genever). Hậu quả do vỡ
đê 42 gây ra đã để lại hết sức nặng nề cho nhân dân trong vùng chịu ảnh hưởng trực
tiếp của trận lũ. Nước lũ đã cuốn đi tài sản, nhà cửa, cơ sở hạ tầng, nhân dân phải
chịu đói, chịu rét. Để khắc phục nhanh chóng hậu quả của trận lũ này, tỉnh Nghệ An
đã tiến hành thực hiện công tác cứu đói, trợ giúp thuốc men, lương thực, quần áo...
Bộ đội tập kết từ Miền Nam ra, đã giúp đỡ nhân dân dựng lại nhà cửa, chữa bệnh,
vệ sinh môi trường... để nhân dân sớm ổn định đời sống. Các vị trí vỡ đê đã được
đắp lại, có chỗ vỡ như đoạn đê thuộc khu vực đền Vua Lê xã Hưng Khánh, do
tuyến đê cũ bị vỡ, tuyến đê mới phải dịch chuyển về phía đồng và đã đè lên cổng
Tam Quan của Đền (hiện nay đang còn đó).
Giai đoạn sau hoà bình lặp lại từ năm 1955 đến năm 1965
Sau hoà bình lập lại, ở miền Bắc, đất nước ta bắt đầu thực hiện nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, là hậu phương lớn cho miền Nam. Miền Bắc
thực hiện kế hoạch 3 năm (1958 đến 1960) và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961
đến 1965), nhằm phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp sức
người, sức của để giải phóng miền Nam thống nhất Tổ Quốc. Trong khi thực hiện
nhiệm vụ kế hoạch 3 năm và kế hoạch 5 năm thì công tác đê điều và phòng chống
lụt bão đã có sự quan tâm đặc biệt. Chủ trương của nhà nước là, “thuỷ lợi là biện
pháp hàng đầu trong nông nghiệp” và công tác xây dựng và bảo vệ đê điều là phải
9
ngăn lũ, chống ngập mặn được chú trọng đặc biệt.
Công tác đắp đê được tiến hành theo tiêu chuẩn:
Đê Tả Lam (đoạn từ Nam Đàn đến Rào Đừng, Nghi Lộc): Chống được mức
nước lũ năm 1954, cao trình đỉnh đê bằng mức nước lũ năm 1954 cộng thêm từ 1,1
đến 1,5m, mái đồng 2/1, mái sông 3/1.
Đê ngăn mặn: Chống được gió bão cấp 9, đỉnh đê bằng cao trình của gió bão
cấp 9, gặp triều cao trung bình tần suất 5%, mái đồng 2/1, mái sông 3/1.
Trong thời kỳ từ năm 1955 đến 1965, nhân dân Nghệ An cùng với nhân dân
các huyện có đê và lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh đã đồng loạt ra quân đắp
nhiều tuyến đê sông, đê biển, đê bao, xây lát nhiều kè, cống.
Các tuyến đê được nâng cấp và làm mới: Đê 42 từ Nam Đàn đến Bến Thuỷ,
đê Hưng Phong từ đoạn Đinh Công Tráng đến kho xăng dầu, đê từ kho xăng dầu
đến Rào Đừng; đê Cẩm Thái, Đồng Văn, Nam Trung, đê Phượng Kỷ...; đê ngăn
mặn với chiều dài hơn 100km thuộc các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc;
đê bao nội đồng thuộc huyện Yên Thành.
Các kè và mỏ hàn được làm mới và sửa chữa: kè Cẩm Thái, Đồng Văn,
Phượng Kỷ, Nam Trung, Hưng Xuân, Chợ Vực (Hưng Xá).
Các cống được làm mới và tu sửa, nối dài: Cống Văn Viên (Hưng Khánh),
Mỹ Dụ (Hưng Châu), Hưng Lợi, Hưng Hoà, Đồng Văn...
Khối lượng thực hiện trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1965:
Đất: 6.890.651 m3
Đá: 112.351 m3
Bê tông: 6.370 m3
Ngày công: 10.132.000 ngày
Tiền: 35.522.000.000 đồng (theo thời giá)
Giai đoạn từ năm 1966 đến năm 1975
Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại, nhằm đối phó với hậu quả có thể xảy ra
10
do máy bay địch ném bom vào các trọng điểm đê điều, tại các trọng điểm này đều
được đắp từ 1-2 tuyến đê dự phòng về sau như trọng điểm Hưng Xuân và một vài
trọng điểm khác. Việc xây dựng đê điều trong giai đoạn này được tiến hành chủ yếu
là củng cố, tu sửa, bảo vệ các tuyến đê, kè, cống. Lực lượng tham gia đắp đê chủ
yếu là nhân dân địa phương và bộ đội tham gia đắp đê trong thời gian chờ đợi vào
chiến trường Miền Nam diệt giặc.
Khối lượng thực hiện:
+ Đất: 3.874.025 m3
+ Đá: 75.629 m3
+ Bê tông: 3.425 m3
+ Ngày công: 6.680.000 ngày
+ Tiền: 22.283.000.000 đồng (theo thời giá)
Giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1985
Đây là thời kỳ thống nhất đất nước, trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn này phải thực hiện công tác hàn gắn, phục hồi các công trình đê điều, phòng
chống lụt bão bị hư hỏng do hậu quả của chiến tranh phá hoại để lại. Trong thời
gian này cũng là thời kỳ thiên tai xảy ra nhiều nhất, lớn nhất, tổn thất cao nhất về
người và tài sản, điển hình là trận lũ năm 1978.
Trận lũ năm 1978 là trận lũ lịch sử, trận lũ này đã làm vỡ nhiều vị trí trên
tuyến đê Đô Lương, Thanh Chương, thành phố Vinh (đoạn Hưng Hoà - Nghi Thái)
và đã gây ngập úng trên diện rộng thuộc địa bàn Nghệ An. Trận lũ đã làm chết 37
người, thiệt hại về kinh tế hơn 60 tỷ đồng (theo thời giá).
Qua trận lũ lịch sử này, Bộ Thuỷ Lợi (cũ) đã đưa ra tiêu chuẩn thiết kế:
- Đê Tả Lam: cao trình mực nước thiết kế = cao trình mức nước lũ hoàn
nguyên năm 1978 trên sông Cả (tại Trạm Thuỷ văn Nam Đàn)
- Đê Hữu Lam: cao trình mực nước thiết kế = cao trình mức nước báo động
II trên sông Cả tại Trạm Thuỷ văn Nam Đàn.
11
Khối lượng thực hiện:
+ Đất: 3.215.000 m3
+ Đá: 56.583 m3
+ Bê tông: 2.175 m3
+ Công: 3.682.000 ngày
+ Kinh phí: 18.450.000.000 đồng (theo thời giá)
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2010
Đây là thời kỳ đổi mới của đất nước. Việc đầu tư kinh phí Trung ương, của
tỉnh cho việc xây dựng đê điều ngày càng được tăng lên hàng năm. Tỉnh Nghệ An
đã thực hiện xong dự án đường du lịch ven sông Lam (từ K58 đến K104 đê Tả
Lam) thời gian thực hiện từ năm 2005 đến 2010 và đã đầu tư nhiều dự án cho công
tác xây dựng công trình đê điều.
Các tuyến kè được làm mới và nâng cấp: Kè Phượng Kỷ, Cẩm Thái, Xuân
Hoà, Hồng Long, Hưng Xuân, Hiệu Mỹ (Hưng Lam), Hưng Lĩnh, Hưng Lam, Phú -
Khánh, Hưng Lợi, Làng Đỏ, Rào Đừng và hệ thống kè trên các tuyến đê Quỳnh
Lộc, Quỳnh Thuận, Quỳnh Long, Sơn Hải, Bãi Ngang, Trịnh Môn - An Hoà -Tả
Thái, Quỳnh Dị, huyện Quỳnh Lưu; đê Kim - Hải - Hùng, Diễn Thành, Trung -
Thịnh - Thành, Bích - Kỷ - Vạn - Ngọc, huyện Diễn Châu; kè đê La Vân (Nghi
Yên), kè Thượng Xá, kè Nghi Hải, huyện Nghi Lộc.
1.2. Đánh giá tổng quan hiện trạng sạt lở tại các khu vực bờ sông
Cùng với bão, lũ lụt, sạt lở bờ sông đang là vấn đề lớn của nhiều nước trên
thế giới. Sạt lở bờ sông là một quy luật tự nhiên nhưng gây thiệt hại nặng nề cho
các hoạt động dân sinh kinh tế vùng ven sông như gây mất đất sản xuất nông
nghiệp, hư hỏng nhà cửa, chết người, thậm chí có thể hủy hoại toàn bộ một khu dân
cư, đô thị.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, sạt lở bờ sông cũng đang là vấn đề lớn
bức xúc hiện nay ở nước ta. Sạt lở bờ diễn ra ở hầu hết các triền sông và ở hầu hết
12
các địa phương có sông. Sạt lở bờ sông ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế và xã hội
của địa phương. Ở vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, hệ thống sông
ngòi miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long, vì dòng sông mang nhiều bùn cát
lại chảy trên một nền bồi tích rất dễ xói bồi nên quá trình xói lở - bồi lắng diễn ra
liên tục theo thời gian và không gian. Xói lở và bồi lắng không chỉ diễn ra vào mùa
lũ mà còn vào mùa kiệt. Đặc biệt trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, hiện
tượng sạt lở diễn ra với chu kỳ nhanh hơn, cường độ mạnh hơn, thời gian kéo dài
hơn và có nhiều dị thường.
Quá trình xói, bồi, biến hình lòng dẫn, sạt lở bờ mái sông, bờ biển trong các
điều kiện tự nhiên và có tác động của con người vô cùng phức tạp. Việc xác định
các nguyên nhân, cơ chế, tìm các giải pháp quy hoạch, công trình nhằm phòng,
chống và hạn chế tác hại của quá trình sạt lở là việc làm có ý nghĩa rất lớn đối với
sự an toàn của các khu dân cư, đô thị, đối với công tác quy hoạch, thiết kế và xây
dựng các đô thị mới. Quá trình nghiên cứu các giải pháp bảo vệ bờ sông trên Thế
giới đã được thực hiện liên tục trong hàng thập kỷ qua. Nhiều giải pháp công nghệ
bảo vệ bờ sông chống xói lở đã được đưa ra và đạt được những hiệu quả nhất định
trong việc hạn chế xói lở, bảo vệ an toàn cho dân cư và hạ tầng cơ sở ven sông. Cho
đến nay, việc nghiên cứu các giải pháp công nghệ mới, cải tiến giải pháp công nghệ
cũ nhằm nâng cao hơn nữa công tác bảo vệ bờ sông chống sạt lở vẫn đang được tiếp
tục. Sau đây là diễn biến sạt lở bờ sông ở một số con sông ở nước ta:
Hiện tượng sạt lở bờ sông Cửu long trên địa bàn tỉnh Hậu Giang
Các vụ sạt lở đe dọa đến các công trình giao thông, thủy lợi và làm hư hại
nhiều nhà cửa, hoa màu của người dân ở vùng hạ lưu sông Cửu Long. Hai địa
phương bị ảnh hưởng nghiêm trọng do sạt lở là huyện Châu Thành và Thị xã Ngã
Bảy. Ngoài ra, huyện Châu Thành A và thành phố Vị Thanh cũng đã xảy ra một vài
điểm sạt lở. Tại thị xã Ngã Bảy, một trong hai điểm nóng về sạt lở đất tình trạng
diễn ra khá phức tạp. Sạt lở không chỉ xảy ra ở các tuyến sông lớn, có lưu lượng tàu
thuyền qua lại nhiều như sông Cái Côn, Mang cá, Quản lộ, Lái Hiếu mà còn xảy ra