Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

(Luận văn thạc sĩ) Chính sách của các nước lớn ( Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) đối với bán đảo
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU THẢO
CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC LỚN ( MỸ, NHẬT BẢN,
NGA, TRUNG QUỐC) ĐỐI VỚI BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
TỪ KHI KẾT THÚC CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60.31.50
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Đình Chỉnh
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU THẢO
CHÍNH SÁCH CỦA CÁC NƯỚC LỚN ( MỸ, NHẬT BẢN,
NGA, TRUNG QUỐC) ĐỐI VỚI BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
TỪ KHI KẾT THÚC CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60.31.50
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Đình Chỉnh
Hà Nội – 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...............................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................5
6. Bố cục của luận văn.........................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................7
Chương 1: VÀI NÉT VỀ BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN TỪ NĂM 1945 ĐẾN 1991.........7
1.1 Chính sách của các nước lớn đối với bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ
1945-1953........................................................................................................7
1.2. Bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ 1953-1991...........................................13
1.2.1. Chính sách của Mỹ và Nhật Bản .......................................................13
1.2.2 Vai trò của Liên Xô và Trung Quốc ...................................................17
1.3 Hai nhà nước Triều Tiên trong thời kỳ chiến tranh lạnh 1953-1990..........21
1.3.1 Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên ..............................................21
1.3.2. Đại Hàn Dân Quốc............................................................................23
Tiểu kết chương 1..............................................................................................26
Chương 2: CHÍNH SÁCH CỦA MỸ, TRUNG QUỐC, NGA VÀ NHẬT BẢN
ĐỐI VỚI BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN TỪ 1991 ĐẾN NAY .................................28
2.1. Chính sách của Mỹ..................................................................................28
2.1.1 Đối với CHDCND Triều Tiên ............................................................37
2.1.2. Đối với Hàn Quốc .............................................................................42
2. 2 Chính sách của Nhật Bản.........................................................................49
2. 2.1. Đối với CHDCND Triều Tiên ..........................................................50
2. 2.2. Đối với Hàn Quốc ............................................................................55
2. 3. Chính sách của Trung Quốc....................................................................63
2.3.1. Đối với CHDCND Triều Tiên ...........................................................64
2.3.2. Đối với Hàn Quốc .............................................................................74
2. 4. Chính sách của Nga................................................................................78
2.4.1. Đối với CHDCND Triều Tiên ...........................................................80
2.4.2. Đối với Hàn Quốc .............................................................................89
Tiểu kết chương 2..............................................................................................93
Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH CỦA MỸ,............................95
TRUNG QUỐC, NGA VÀ NHẬT BẢN ĐỐI VỚI BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY...............................................................................95
3.1. Đối với CHDCND Triều Tiên .................................................................95
3.1.1. Về chính trị .......................................................................................95
3.1.2.Về kinh tế.........................................................................................103
3.1.3. Về văn hóa-xã hội ...........................................................................110
3.2. Đối với Hàn Quốc...................................................................................113
3.2.1. Về chính trị ......................................................................................113
3.2.2. Về kinh tế........................................................................................123
3.2.3. Về văn hóa - xã hội .........................................................................128
Tiểu kết chương 3............................................................................................130
KẾT LUẬN.....................................................................................................134
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................136
PHỤ LỤC........................................................................................................142
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,
các quốc gia trên thế giới bước vào một giai đoạn mới với nhiều cơ hội và thách
thức mới. Trong lịch sử thế giới, châu Á là một khu vực chịu nhiều hệ luỵ của
chiến tranh lạnh để lại. Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống thế giới cùng
với những cuộc chiến tranh khu vực, chiến tranh bộ phận đã gây ra những hậu
quả nặng nề, trong đó khu vực bán đảo Triều Tiên ngày nay là một ví dụ điển
hình về hậu quả của chiến tranh lạnh.
Thực tế lịch sử cho thấy, sau năm 1953, bán đảo Triều Tiên bị chia cắt
làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, quan hệ giữa hai miền tiếp tục
diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Từ năm 1970, tình hình chính trị quốc tế có
chuyển biến mới, theo đó, mối quan hệ Liên Triều dần được cải thiện, những
cuộc tiếp xúc, trao đổi ban đầu giữa các tổ chức xã hội giữa hai miền là những
bước đi quan trọng mở đường cho tiến trình hoà hợp dân tộc, hoà bình và thống
nhất trên vùng bán đảo.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, bán đảo Triều Tiên bước vào giai đoạn
mới với những quan hệ mới nảy sinh. Bên cạnh mối quan hệ Liên Triều lúc thăng,
lúc trầm thì chính sách của các nước lớn như Mỹ, Nhật, Trung Quốc và Nga tiếp
tục có vai trò quan trọng tác động đến tiến trình hoà giải, hợp tác và thống nhất
của hai nhà nước trên vùng bán đảo Triều Tiên.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, khu vực Đông Bắc Á là một khu vực nhạy
cảm về chính trị và có tầm quan trọng chiến lược trong quan hệ quốc tế của khu
vực và thế giới. Có thể thấy, sau hơn hai thập kỷ chiến tranh lạnh kết thúc, tình
hình chính trị trên vùng bán đảo Triều Tiên vẫn diễn biến theo chiều hướng phức
tạp, quan hệ giữa hai miền lúc thăng, lúc trầm nhất là quan hệ về chính trị và vấn
đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên.
Từ những nội dung nêu trên có thể thấy rằng, vấn đề thống nhất bán đảo
Triều Tiên, tác động của các nước lớn đối với vùng bán đảo này là một chủ đề
2
khoa học quan trọng cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện
nhằm góp phần vào sự phát triển chung của xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Đối với CHDCND Triều Tiên, hiện nay Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì mối
quan hệ truyền thống hữu nghị với nhà nước này. Tuy nhiên bên cạnh đó, quan
hệ Việt Nam- Hàn Quốc được thiết lập từ năm 1992 đến nay đã trở thành mối
quan hệ đối tác chiến lược. Việc Việt Nam tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ
với hai nhà nước trên vùng bán đảo Triều Tiên là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng góp phần vào sự phát triển chung của xu thế hội nhập và bảo vệ, gìn giữ
anh ninh chung của khu vực và quốc tế.
Từ những nội dung nêu trên, chúng tôi cho rằng, chủ đề khoa học này cần
phải được nghiên cứu toàn diện và hệ thống, với tinh thần đó, tôi xin chọn đề tài:
“Chính sách của các nước lớn (Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) đối với bán đảo
Triều Tiên từ năm 1991 cho đến nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên
ngành châu Á học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài được tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
- Thứ nhất, mục tiêu chủ yếu của đề tài dược tập trung vào việc nêu và phân
tích những chính sách của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc đối với
hai nhà nước trên vùng bán đảo Triều Tiên sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay
- Thứ hai, trên cơ sở nêu và phân tích chính sách của các nước lớn nêu trên,
đề tài luận văn tập trung làm rõ những tác động tích cực và những mặt hạn chế
của những nước này đến tình hình hai nhà nước trên vùng bán đảo Triều Tiên.
- Thứ ba, đề tài sẽ rút ra một số kết luận bước đầu về những thách thức và
triển vọng của quá trình hoà hợp và thống nhất đất nước của hai miền trên vùng
bán dảo trong tương lai.
3 . Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bán đảo Triều Tiên với vị trí địa-chiến lược ở khu vực Đông Bắc Á là nơi
diễn ra những cuộc đụng đầu lịch sử mang tính quốc tế sau chiến tranh thế giới
thứ hai đến nay đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của khu vực và thế
giới.
3
Đề cập đến chủ đề chính sách của các nước lớn, cũng như quan hệ giữa hai
miền trên vùng bán đảo Triều Tiên, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này. Chẳng hạn, có một số bài nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài đã được dịch hoặc biên soạn bằng tiếng Việt như “Nga và cuộc khủng
hoảng trên bán đảo Triều Tiên” của tiến sĩ sử học Denisov trên nguyệt san “Đời
sống quốc tế” của Nga, “Đối đầu Mỹ-Triều và địa chính trị Đông Nam Á năm
2003” của Quách Phi Hùng (Trung Quốc), “Chiến lược đối ngoại lâu dài của
Trung Quốc” của chuyên viên Viện quan hệ quốc tế- Đại học nhân dân Trung
Quốc, “Những thay đổi của Bắc Triều Tiên và quan hệ Trung -Triều” của giáo sư
Ri Nam Ju (Hàn Quốc), “Kinh tế Hàn Quốc đang trỗi dậy”, của Byung Nak Song,
Nxb Thống kê, Hà Nội 2002… Những tác phẩm nêu trên đã có nhiều nội dung
liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
Nghiên cứu về tình hình chính trị, quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Bắc Á
nói chung và bán đảo Korea nói riêng, ở Việt Nam, đã có nhiều nhà hoạt động
chính trị, nhiều nhà khoa học, ngoại giao, nghiên cứu kinh tế… đã có các bài
nghiên cứu như: “Hợp tác kỹ thuật quân sự Nga và Hàn Quốc” của Phạm Quỳnh
Hương, “Tổng quan về quan hệ Hàn- Mỹ” của Bùi Thị Kim Huệ, “Về chủ nghĩa
khu vực mới ở Đông Á” của Lê Văn Mỹ, “Về quan hệ Hàn Quốc- Nhật Bản” của
Ngô Hương Lan. Một số sách đã được xuất bản như: “Hàn Quốc trước thềm thế
kỷ 21” Ngô Xuân Bình (chủ biên)- Ban nghiên cứu Hàn Quốc Nxb Thống kê, Hà
Nội, 1999, “Một số vấn đề sau thống nhất của bán đảo Triều Tiên; góc nhìn từ
Việt Nam” của tác giả Ngô Xuân Bình và Phạm Quý Long, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội 2007, “ Lao động Triều Tiên nêu cao tự lực cánh sinh” của tác giả
Nguyễn Cư và Trần Quang, Nxb Lao động, Hà Nội 1964, Tra cứu văn hóa Hàn
Quốc” Hwang Gwi Yeon và Trịnh Cẩm Lan, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002,
“Ban biên soạn Hàn Quốc học, Bộ giáo trình Hàn Quốc học số 1 SNU-VNU”,
Đại học quốc gia Seoul, Đại học quốc gia Việt Nam, 2005…Nhìn chung, những
tài liệu nghiên cứu trên cũng chứa đựng nhiều nội dung quan trọng liên quan đến
vấn đề nghiên cứu của đề tài.
4
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu còn có nhiều bài viết trên các tạp chí
nghiên cứu chuyên ngành tại Việt nam. Qua khảo sát chúng tôi có thể thống kê
một số bài nghiên cứu có nội dung lien quan đến chủ đề nghiên cứu gồm: “Một
số thông tin về quân chủng phòng không- không quân Hàn Quốc”trên Tạp chí
Kiến thức Quốc phòng hiện đại; số 1, năm 2001; “Chiến lược phát triển mới của
quốc phòng Hàn Quốc”;Tạp chí Khoa học Quân sự; số 12, tháng 12, năm 2001;
“Tuyên bố chung Nhật Bản-Hàn Quốc” Tài liệu tham khảo đặc biệt, Việt Nam
thông tấn xã, ngày 12.6.2003; “Tuyên bố chung Trung Quốc- Hàn Quốc” Tài
liệu tham khảo đặc biệt, Việt Nam thông tấn xã, ngày 12.7.2003; “Những yếu tố
văn hoá- xã hội, giáo dục con người trong quá trình phát triẻn kinh tế Hàn
Quốcvà những vấn đề đặt ra trong chiến lược toàn cầu hoá hiện nay; Tạp chí
Nghiên cứu Nhật Bản; số 2-1998; “Chiến lược cải cách kinh tế của Hàn Quốc
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế ( 1997-1999)” Tạp chí Nghiên cứu Nhật
Bản; số 4-1999; “Vài nét về tư tưởng Nho giáo ở Hàn Quốc; Tạp chí Nghiên cứu
Nhật Bản; số 6-1999; “Các biện pháp kinh tế chủ yếu của Chính phủ Hàn Quốc
cho quá trình thống nhất bán đảo Triều Tiên” Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản; số
5- 2000; “Vài nét về quan hệ kinh tế Hàn Quốc - Mỹ (1948-1979” Tạp chí
Nghiên cứu Nhật Bản; số 2- 2001; “Nhân tố Nhật Bản trong sự phát triển kinh tế
của Hàn Quốc ( 1961-1993)”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản; số 5- 2001; „Giao
lưu hợp tác văn hoá giữa Hàn Quốc với Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên
trong những năm gần đây‟ Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản; số 1- 2002.
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu của đề tài đã có một số luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ đã bảo vệ thành công tại các cơ sở đào tạo ở Việt Nam, chẳng hạn:
“Lê Đình Năm; Vấn đề Triều Tiên trong quan hệ quốc tế từ năm 1945 đến nay;
Luận văn thạc sĩ Khoa Lịch sử, Hà nội 2004; Thư viện quân đội ký hiệu
LAV4798. Nguyễn Thị Giang: “Quan hệ Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên
và Hàn Quốc từ năm 1948 đến nay” (Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử); Hà Nội
2001; Thư viện Quân đội; ký hiệu LAV4774; Nguyễn Quang Hồng, “Quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Hàn Quốc trong giai đoạn 1960-1995: Kinh
nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt nam” Luận án tiến sĩ; Trường Đại học
5
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 2002; Nguyễn Nam Thắng; “Quan hệ Việt Nam- Hàn
Quốc giai đoạn 1992-2002 đặc điểm và khuynh hướng”, Luận Án Tiến sỹ Lịch
sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh- 2004;
Lê Đức Hạnh: “Quân đội Hàn Quốc trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ ở Việt Nam giai đoạn 1964-1973”, Luận văn thạc sĩ sử học; Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Đại Học Quốc gia Hà Nội; Hoàng Văn Hiển:
“Quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Hàn Quốc (1961-1993) và kinh nghiệm
đối với Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2008.
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học trong và
ngoài nước, chúng tôi xác định hướng nghiên cứu của đề tài là từ góc độ khu vực
học, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu, đánh giá về một số chính sách của các nước
lớn trên vùng bán đảo Korea và phân tích những mặt tích cực và hạn chế của
những chính sách này đối với vùng bán đảo cũng như một số dự báo về tương lai
của hai miền trên vùng bán đảo Korea trong những thập kỷ tiếp theo của thế kỷ
XXI.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đề cập đến nội dung chủ yếu về chính sách
của bốn nước lớn là Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc đối với Hàn Quốc và
CHDCND Triều Tiên từ khi kết thúc chiến tranh lạnh cho đến nay. Qua đó có thể
thấy được những tác động tích cực và hạn chế của các chính sách đó tới hai nước
của bán đảo Triều Tiên và đồng thời cũng cho thấy được mục tiêu của các nước
lớn đối với bán đảo Triều Tiên trong tương lai.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hai nhà nước CHDCND Triều Tiên và Hàn
Quốc được xoay quanh trục quan hệ chính các nước lớn là Mỹ, Nhật, Nga, Trung
Quốc.
5 . Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn này chủ yếu sử dụng phương
pháp mô tả lịch sử và liên ngành. Trong đó, phương pháp mô tả lịch sử sẽ giúp
cho đề tài hệ thống hóa được nội dung nghiên cứu và có cái nhìn hệ thống về các
vấn đề lịch sử. Phương pháp nghiên cứu liên ngành còn mở rộng phạm vi nghiên
6
cứu của đề tài, cũng như sắp xếp, xử lý các nguồn tài liệu nghiên cứu. Ngoài ra,
đề tài còn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp tổng hợp và phân
tích…
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo của luận văn, đề tài
luận văn được bố cục thành 3 chương như sau:
Chương 1: Vài nét về bán đảo Triều Tiên từ năm 1945 đến năm 1991
Chương 2: Chính sách của Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga đối với
bán đảo Triều Tiên từ năm 1991 đến nay
Chương 3: Ảnh hưởng của chính sách của Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Nga đối với bán đảo Triều Tiên từ năm 1991 đến nay
7
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: VÀI NÉT VỀ BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN TỪ NĂM 1945 ĐẾN 1991
1.1 Chính sách của các nước lớn đối với bán đảo Triều Tiên trong thời
kỳ 1945-1953
Giai đoạn nửa sau thế kỷ XX, thế giới loài người tiếp tục phải đối mặt với
một cuộc chiến tranh mới- cuộc chiến tranh lạnh diễn ra trên phạm vi thế giới mà
nội dung chủ yếu của nó là cuộc chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống thế giới với
một bên là khối các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu và một bên là
khối các nước tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ. Có thể thấy, cuộc chạy đua vũ
trang khi ngấm ngầm, khi công khai cùng với những cuộc chiến tranh khu vực,
chiến tranh bộ phận, sản xuất vũ khí hiện đại, chạy đua thám hiểm vũ trụ… đều
có sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của hai hệ thống thế giới.
Đến nay, tuy chiến tranh lạnh đã kết thúc, thế giới đã bước sang một thời
kỳ phát triển mới, song trên bình diện quốc tế, các cuộc chiến tranh, tranh chấp
và những mâu thuẫn khu vực, bộ phận vẫn tiếp tục xuất hiện với những mức độ
và phạm vi khác nhau.
Khi đề cập đến chiến tranh lạnh và sự ảnh hưởng của nó trên phạm vi thế giới,
đã có nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu, bài báo, bài viết trên các tạp chí
nghiên cứu, các kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế…của nhiều nhà hoạt động
chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội thuộc nhiều ngành khoa
học khác nhau nghiên cứu về vấn đề này.
Chẳng hạn, theo định nghĩa của từ điển của từ điển bách khoa toàn thư:
“Chiến tranh lạnh (1945–1991) là tình trạng tiếp nối xung đột chính trị, căng
thẳng quân sự, và cạnh tranh kinh tế tồn tại sau Thế chiến II (1939–1945), chủ
yếu giữa Liên bang Xô viết và các quốc gia vệ tinh của nó, với các cường quốc
thuộc thế giới phương Tây, gồm cả Hoa Kỳ. Dù các lực lượng tham gia chủ yếu
không bao giờ chính thức xung đột, họ đã thể hiện sự xung đột thông qua các
liên minh quân sự, những cuộc triển khai lực lượng quy ước chiến lược, một cuộc
chạy đua vũ trang hạt nhân, tình báo, chiến tranh uỷ nhiệm, tuyên truyền, và
cạnh tranh kỹ thuật, như cuộc chạy đua không gian.”[53].
8
Là một nước một cường quốc đứng đầu thế giới tư bản sau Đại chiến thế
giới lần thứ II, với âm mưu làm bá chủ thế giới, Mỹ cho rằng: “Chiến tranh lạnh
trước hết là cuộc chiến tranh của các tư tưởng, một cuộc đấu tranh về các
nguyên tắc tổ chức xã hội loài người, một cuộc đua tranh giữa chủ nghĩa tự do
và chủ nghĩa tập thể cưỡng ép. Đối với Hoa Kỳ, Chiến tranh lạnh là cam kết thực
sự bền vững đầu tiên của đất nước trong Nền Chính trị Cường quốc, và nó đòi
hỏi người dân Mỹ phải để cho những xung lực trái ngược nhau của họ đối mặt
với thế giới bên ngoài: mong muốn tồn tại biệt lập và mong muốn bảo vệ tự do
cho những dân tộc khác – vì sự thúc đẩy của cả chủ nghĩa vị tha lẫn tư tưởng tư
lợi.” [12].
Như vậy, từ góc nhìn chính trị có thể thấy cuộc chiến tranh lạnh chính là
sự hình thành mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới mà chủ yếu là sự đối lập về
mục tiêu chiến lược giữa hai cường quốc Liên Xô và Mỹ.
Đối với Liên Xô, là nước đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa, Liên Xô
muốn duy trì hòa bình và an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ
nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới. Ngược lại, về phía Mỹ,
mục tiêu chiến lược toàn cầu là bao vây, chống phá Liên Xô và các nước XHCN,
đẩy lùi phong trào cách mạng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ latinh nhằm
thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.
Trước sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào dân tộc
trên phạm vi thế giới, đầu năm 1947, Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đưa ra
chủ nghĩa Truman lộ rõ âm mưu chiến lược toàn cầu với quan điểm rằng Mỹ
phải đứng ra đảm nhiệm sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do, phải giúp đỡ cho các
dân tộc trên thế giới chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản, chống lại sự
bành trướng của nước Nga, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Cũng
từ đó, Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh chống Liên Xô và các nước XHCN, đàn
áp phong trào giải phóng dân tộc.
Ở khu vực châu Á, bán đảo Triều Tiên nằm ở khu vực Đông Bắc Á, là
một trong những khu vực có vị trí địa - chiến lược quan trọng. Không phải ngẫu
nhiên mà trong nhiều thập kỷ qua, vùng bán đảo này luôn được các nước lớn như
9
Liên Xô (nay là Nga), Trung Quốc, Mỹ và Nhật đặc biệt quan tâm. Là một bán
đảo nằm án ngữ ngã ba chiến lược cả trên biển lẫn lục địa, chiếc cầu nối Thái
Bình Dương với lục địa châu Á và châu Âu nên vùng bán đảo này đã sớm trở
thành khu đệm, điểm nóng của sự tranh chấp quyền lực quốc tế.
Trở lại với bối cảnh quốc tế của bán đảo có thể thấy, trước khi Đại chiến
thế giới lần thứ hai kết thúc, vấn đề độc lập của bán đảo Korea đã trở thành nội
dung quan trọng của nhiều hội nghị quốc tế.
Tháng 11.1943, tại Hội nghị Cai rô Ai Cập, Tổng thống Mỹ Franklin D.
Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchil và đại diện Trung Quốc lúc đó là
Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai- shek) đã ra Tuyên bố chung - Tuyên bố nêu rõ:
“Ba nước đồng minh cùng chiến đấu để ngăn cản và trừng phạt cuộc xâm lăng
của Nhật Bản. Ba nước không muốn tìm kiếm lợi ích riêng và không hề nghĩ đến
việc bành trướng đất đai. Mục đích của ba nước là buộc Nhật bỏ hẳn các đảo tại
Thái Bình Dương mà Nhật đã chiếm cứ hay đóng quân kể từ khi bắt đầu từ chiến
tranh thế giới thứ nhất vào năm 1914, cùng tất cả các lãnh thổ Nhật đã cướp của
Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan, và quần đảo Bành Hồ, phải được giao lại
hoàn toàn cho Cộng hoà Trung Hoa. Về vấn đề Triều Tiên, ba nước nói trên
cũng nêu rõ: “vào một lúc thích hợp, Triều Tiên sẽ trở nên tự do và độc lập” [1,
tr251].
Có thể thấy, sau tuyên bố Cairo, một không khí vui mừng, phấn khởi bao
trùm trên khắp bán đảo Triều Tiên, viễn cảnh cho một nước Triều Tiên giải
phóng thoát khỏi ách chiếm đóng của Nhật đang hiện ra trước mắt họ. Tuy nhiên
cụm từ mà họ còn chưa chú ý đến trong Tuyên ngôn Cairo đó là vào một lúc
thích hợp, nếu hiểu một cách cụ thể thì độc lập và tự do của vùng bán đảo này
đang nằm trong tay các thế lực quốc tế và như vậy, khi nào thì thời gian cho tự
do và độc lập của Triều Tiên là sẽ thích hợp, tương lai về một nước Triều Tiên
độc lập và tự do như vẫn chưa có hồi kết.
Mặc dầu vậy, Tuyên bố Cairo cũng có một ý nghĩa quan trọng với khu
vực Thái Bình Dương nói chung và bán đảo Triều Tiên nói riêng. Đây không chỉ
là một cuộc dàn xếp có chủ định của ba cường quốc ở khu vực Thái Bình Dương
10
sau sự thất trận của Nhật, mà còn ảnh hưởng đến tương lai của bán đảo Triều
Tiên.
Vào thời điểm khi Đại chiến thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối,
sau Hội Nghị Teheran, Hội nghị Yalta họp vào thời điểm tháng 2 năm 1945, các
nước Đồng minh và Liên Xô tiếp tục đề cập đến vấn đề bán đảo Triều Tiên, đối
với vấn đề Triều Tiên, Hội nghị đã thông qua quy định:
- Nhằm xây dựng một nước Triều Tiên độc lập, thành lập một chính phủ
dân chủ lâm thời Triều Tiên để đảm nhiệm việc phát triển nông nghiệp, công
nghiệp, vận tải và nền văn hoá quốc gia chung cho cả nước Triều Tiên, đồng thời
sớm thanh toán những hậu quả chiến tranh do Nhật Bản gây ra.
- Để giúp cho việc thành lập chính phủ lâm thời Triều Tiên, Uỷ ban liên
hợp gồm đại diện bộ chỉ huy Liên Xô và Mỹ ở Triều Tiên được thành lập. Uỷ
ban này sẽ thăm dò ý kiến của các đảng phái, và các tổ chức dân chủ để thảo ra
những đề nghị về giải quyết vấn đề Triều Tiên. Những khuyến nghị này của uỷ
ban sẽ được gửi đến bốn nước Liên Xô, Anh, Mỹ và Trung Quốc xét và hai chính
phủ Liên Xô và Trung Quốc sẽ có quyết định cuối cùng.
Hội nghị cũng quy định thời gian ủy trị của 4 cường quốc là không quá 5
năm và việc uỷ trị của các nước này chỉ nhằm khuyến khích và giúp đỡ cho sự
tiến bộ về kinh tế, chính trị, xã hội cũng như phát triển quyền tự quản dân chủ
cho nền độc lập dân tộc của Triều Tiên [13, tr229].
Tuy nhiên, những quyết định nêu trên đã không được thực hiện theo đúng
tinh thần của nó, vì do những bất đồng về quan điểm giữa Liên Xô và Mỹ trong
cách giải quyết vấn đề bán đảo Triều Tiên.
Như vậy, sự bất đồng quan điểm giữa Liên Xô và Mỹ đã gây ra những ảnh
hưởng nghiêm trọng trong việc thống nhất hai miền bán đảo Triều Tiên thời điểm
đó. Cuối cùng, Uỷ ban tạm thời của Liên Hợp Quốc đến bán đảo Triều Tiên làm
nhiệm vụ tổ chức bầu cử thành lập một Uỷ ban tạm thời, nhưng sau đó tình hình
diễn ra cũng không theo đúng dự định, các mục tiêu ban đầu của Liên Hợp Quốc
về vấn đề bán đảo Triều Tiên đã bị loại bỏ.