Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

(Luận văn thạc sĩ) Bia đá thế kỷ XVII của một số chùa ở ngoại thành Hà Nội (khảo sát 10 huyện phía
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ XUÂN
BIA ĐÁ THẾ KỶ XVII CỦA MỘT SỐ CHÙA Ở
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI (KHẢO SÁT 10
HUYỆN PHÍA TÂY VÀ PHÍA NAM HÀ NỘI)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI – 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------***-------------------
NGUYỄN THỊ XUÂN
BIA ĐÁ THẾ KỶ XVII CỦA MỘT SỐ CHÙA Ở
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI (KHẢO SÁT 10
HUYỆN PHÍA TÂY VÀ PHÍA NAM HÀ NỘI)
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. PHAN PHƯƠNG THẢO
HÀ NỘI, 2011
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Bảng chữ cái viết tắt 1
MỞ ĐẦU 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Phương pháp nghiên cứu 9
5. Đóng góp của luận văn 9
6. Bố cục luận văn 10
Chương 1: Vài nét về bia đá thế kỷ XVII và 17 ngôi chùa tiêu biểu của
10 huyện ngoại thành Hà Nội
12
1.1. Vài nét về bia đá Việt Nam 12
1.1.1. Khái niệm về bia đá 12
1.1.2. Bia đá Việt Nam qua các thời kỳ 13
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bia đá thế kỷ XVII 17
1.1.3.1. Yếu tố tự nhiên 17
1.1.3.2. Yếu tố chính trị - xã hội 18
1.1.3.3. Yếu tố kinh tế 20
1.1.3.4. Yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng 21
1.2. Một số ngôi chùa Việt thế kỷ XVII ở 10 huyện phía Tây và phía Nam
Hà Nội
22
1.2.1. Tổng quan về 10 huyện phía Tây và phía Nam Hà Nội 22
1.2.1.1. Vị trí địa lý 22
1.2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển 22
1.2.2. Về một số ngôi chùa Việt thế kỷ XVII ở 10 huyện phía Tây và
phía Nam Hà Nội
26
1.2.3. Phân bố bia đá thế kỷ XVII trong các ngôi chùa Việt ở 10 huyện
phía Tây và phía Nam Hà Nội
30
1.2.3.1. Phân bố bia theo không gian
1.2.3.2. Phân bố theo thời gian
30
33
Tiểu kết chương 1 35
Chương 2: Nghệ thuật tạo tác bia đá thế kỷ XVII (trường hợp 10 huyện
ngoại thành Hà Nội)
36
2.1. Quá trình tạo tác văn bia 36
2.1.1. Tác giả soạn văn bia 37
2.1.2. Người viết chữ 40
2.1.3. Thợ khắc bia đá 42
2.2. Vật liệu sử dụng làm bia 44
2.3. Đặc điểm bia đá thế kỷ XVII
2.3.1. Phân loại bia đá
45
45
2.3.2. Bố cục trang trí bia đá 49
2.3.3. Kỹ thuật chạm khắc 52
2.3.4. Đặc điểm chạm khắc 54
2.3.4.1. Hình tượng linh thú
2.3.4.2. Biểu tượng tự nhiên
55
59
2.3.4.3. Biểu tượng “Phật giáo” 61
Tiểu kết chương 2 63
Chương 3: Nội dung phản ánh của bia đá thế kỷ XVII (trường hợp 10
huyện ngoại thành Hà Nội)
66
3.1. Tên gọi và cách phân loại các ngôi chùa qua văn bia
3.1.1. Tên gọi các ngôi chùa
66
66
3.1.2. Cách phân loại các ngôi chùa qua văn bia 69
3.2. Vị trí và quy mô chùa qua văn bia:
3.2.1. Vị trí và cảnh quan các ngôi chùa
73
73
3.2.2. Quy mô các ngôi chùa 77
3.3. Quá trình xây dựng và trùng tu chùa qua văn bia thế kỷ XVII
3.3.1. Vật liệu xây dựng chùa
79
79
3.3.2. Lịch sử xây dựng và trùng tu chùa
3.3.2.1. Một số khái niệm liên quan
83
83
3.3.2.2. Lịch sử xây dựng và trùng tu chùa 83
3.4. Tạo tượng và đúc chuông 87
3.4.1. Tạo tượng 87
3.4.2. Đúc chuông 89
3.5. Hoạt động của chợ Tam bảo 91
3.6. Đối tượng tham gia đóng góp xây dựng chùa 92
3.6.1. Đóng góp của lực lượng quý tộc 93
3.6.2. Đóng góp của quan viên làng xã 96
3.6.3. Đóng góp của sư trụ trì 97
3.6.4. Đóng góp của những người trong làng xã 98
Tiểu kết chương 3 99
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
PHỤ LỤC
A. BẢNG THỐNG KÊ BIA ĐÁ 114
B. BẢN PHIÊN ÂM, DỊCH NGHĨA BIA ĐÁ 118
C. DANH MỤC BẢN ĐỒ, BẢN ẢNH
PHỤ LỤC BẢN ĐỒ
Bản đồ 1: Bản đồ hành chính thành phố Hà Nội 178
Bản đồ 2: Vị trí di tích thuộc 10 huyện ngoại thành Hà Nội 179
PHụ LụC BảN ảNH 180
I. Chùa Bối Khê (Tam Hưng- Thanh Oai- Hà Nội) 180
Ảnh 1: Bia “Hậu Phật bi - Thịnh Đức 3 (1655) 180
II. Bia đá chùa Cống Xuyên (Thường Tín- Hà Nội) 181
Ảnh 2: Bia “Vạn cổ vĩnh truyền” - Dương Hòa 7 (1641) 181
III. Chùa Đậu (Thường Tín- Hà Nội)
Ảnh 3: Bia “Pháp Vũ tự bi” Thịnh Đức 3 (1655) 181
Ảnh 4: Trang trí trán bia“Pháp Vũ tự bi” - Thịnh Đức 3 (1655) 181
Ảnh 5: Bia “Pháp Vũ tự tạo lệ bi” - Thịnh Đức 4 (1656) 182
Ảnh 6: 182
Ảnh 7: Bia “Khoán ước Pháp Vũ tự bi ký”- Thịnh Đức 4 (1656) 182
Ảnh 8: Trang trí diềm chân bia “Khoán ước Pháp Vũ tự bi ký” - Thịnh Đức
4 (1656)
183
IV. Chùa Hưng Giáo (Tam Hưng- Thanh Oai- Hà Nội)
Ảnh 9: Bia “Hưng Giáo xã Hưng Phúc tự cổ tích danh lam tu tạo thạch
bi”- Vĩnh Tộ 9 (1627)
183
V. Chùa Hương (Mỹ Đức- Hà Nội)
Ảnh 10 - 11: Trang trí trên trán bia “Thiên Trù tự bi ký”- Chính Hòa 7
(1686)
184
Ảnh 12: Trang trí hình trâu mẹ, trâu con trên đế bia “Thiên Trù tự bi ký”-
Chính Hòa 7 (1686)
185
Ảnh 13: Trang trí hình ba ba trên đế bia “Thiên Trù tự bi ký”- Chính Hòa
7 (1686)
185
Ảnh 14: Trang trí hình cua, chuột, rắn trên đế bia “Thiên Trù tự bi ký” -
Chính Hòa 7 (1686)
186
Ảnh 15: Trang trí hình con rùa trên đế bia “Thiên Trù tự bi ký” - Chính
Hòa 7 (1686)
186
Ảnh16: Trang trí hình chuột, rắn trên đế bia “Thiên Trù tự bi ký” - Chính
Hòa 7 (1686)
187
VI. Bia chùa La Khê (Hà Đông - Hà Nội)
Ảnh17: Bia “Hậu Phật bi ký”- Chính Hòa 4 (1683) 187
VII. Bia chùa Mậu Lương (Kiến Hưng, Hà Đông, Hà Nội)
Ảnh 18 188
Ảnh19: 188
VIII. Chùa Mía (Sơn Tây- Hà Nội)
Ảnh 20: Bia “Sùng Nghiêm tự thị bi”- Vĩnh Tộ 6 (1624) 189
Ảnh 21- 22: Trang trí hình mặt trời, hoa sen trên trán bia “Sùng Nghiêm tự
thị bi”- Vĩnh Tộ 6 (1624)
189
Ảnh 23: Bia “Sùng Nghiêm tự bi ký”- Đức Long 6 (1634) 190
Ảnh 24-25.Trang trí hình mặt trời, ván lá đề trên trán bia “Sùng Nghiêm tự
bi ký”- Đức Long 6 (1634)
190
IX. Chùa Kim Bôi (Mỹ Đức- Hà Nội)
Ảnh 26. Bia “Trùng tu Đại Bi tự bi ký”- Phúc Thái 6 (1648) 191
X. Chùa Sổ (Thanh Oai- Hà Nội)
Ảnh 27. Bia “Hội Linh Quán bi ký” - Hoằng Định 4 (1604) 191
Ảnh 28-29. Bia “Hội Linh quán bi ký”- Đức Long 4 (1632) 192
XI. Chùa Thầy (Quốc Oai- Hà Nội)
Ảnh 30. Bia “Hậu Phật bi ký”- Khánh Đức 4 (1652) 192
Ảnh 31. Bia “Hậu Phật bi ký”- PCNT giữa thế kỷ XVII 192
Ảnh 32. Trang trí hoa văn đao mác đế bia “Hậu Phật bi ký”- PCNT giữa
thế kỷ XVII
193
Ảnh 33-34. Bia “Hậu Phật bi ký”- Thịnh Đức 1 (1653) 193
Ảnh 35-36. Bia “Thiên Phúc tự tạo lệ bi”- Cảnh Trị 4 (1666) 194
Ảnh 37-38. Trang trí hình lân dưới chân bia “Thiên Phúc tự tạo lệ bi”-
Cảnh Trị 4 (1666)
194
1
B¶ ng c ¸ c c h ÷ v iÕt t ¾t
Bd. B¶n dÞch
C ¬ng Môc Kh©m ®Þnh ViÖt sö th«ng gi¸m c ¬ng môc
DTH T¹p chÝD©n téc häc
§ NNTC § ¹i Nam nhÊt thèng chÝ
§VSKTT § ¹i ViÖt sö ký toµn thGS Gi¸o sHN HµNéi
KCH T¹p chÝKh¶o cæhäc
KHXH Khoahäc x· héi
LTHCLC LÞch triÒu hiÕn ch ¬ng lo¹i chÝ
NCNT T¹p chÝNghiªn cøu NghÖthuËt
NPHMVKCH Nh÷ng ph¸t hiÖn mí i vÒkh¶o cæhäc
Nxb NhµxuÊt b¶n
PGS Phã gi¸o str. Trang
Ts TiÕn sü
Tp HCM Thµnh phè Hå ChÝMinh
VHDG T¹p chÝV¨n ho¸ D©n gian
VHTT V¨n ho¸ Th«ng tin
VHNT T¹p chÝNghiªn cøu V¨n ho¸ NghÖthuËt
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Bia đá là một trong những nguồn tư liệu quý giá trong nghiên cứu
lịch sử và văn hoá: “Văn bia là những chứng tích phản ánh những cuộc biến
thiên và cả lòng thiết tha của con người muốn gìn giữ dấu vết quý giá của
thời xưa để truyền dạy cho muôn đời sau niềm tự hào về nền văn hoá lâu đời
của nhân dân ta” [100, tr. 9-10]. Bia đá là hiện tượng văn hoá được nảy sinh
từ đời sống xã hội như là một trong những hình thức thông tin từ thời cổ -
trung đại. Bia đá xuất hiện từ khá sớm, truyền thống sáng tạo bia đá ở các
nước sử dụng chữ tượng hình bắt đầu từ Trung Quốc, sau đó được truyền
sang Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Bia đá Việt Nam ra đời
trong mối quan hệ văn hoá vùng và tiếp nhận ảnh hưởng truyền thống sáng
tạo bia đá ở Trung Quốc, tuy nhiên bia đá Việt Nam có những nét đặc trưng
mang bản sắc truyền thống dân tộc. Ở nhiều góc độ nghiên cứu về khoa học
xã hội và nhân văn, bia đá là nguồn tư liệu rất có giá trị để tìm hiểu về lịch sử
dân tộc. Những bia đá có giá trị thường được các nhà thơ, nhà văn sáng tác
với nội dung phong phú đa dạng phản ánh về tình hình chính trị - xã hội, đời
sống con người, văn hoá giáo dục... tất cả đều mang đậm bản sắc văn hoá dân
tộc Việt Nam. Trên mỗi bề mặt của bia khắc các hoạ tiết trang trí nghệ thuật.
Bởi vậy, bia đá còn là những tư liệu quý về lịch sử điêu khắc và thư pháp Việt
Nam. Những bia đá thường gắn bó mật thiết với các công trình kiến trúc tôn
giáo như đình, đền, chùa, miếu và không biết tự bao giờ những tấm bia đá đã
trở thành một bộ phận hữu cơ của những ngôi chùa Việt cổ.
1.2. Có thể nói rằng, chùa là một loại hình kiến trúc quan trọng trong đời
sống tâm linh của mỗi người dân Việt. Các công trình kiến trúc tôn giáo này
thường được tạo dựng bằng vật liệu kiến trúc cổ truyền. Trong điều kiện khí
hậu nóng, ẩm, nhiều thiên tai, địch họa của miền nhiệt đới, cùng với nét đặc
3
thù của lịch sử dân tộc chiến tranh liên miên, đã khiến cho các công trình kiến
trúc cổ này bị hủy hoại. Bởi vậy, các công trình kiến trúc này thường xuyên
được tái tạo, tu bổ. Công việc trùng tu đó thường in đậm dấu ấn của thời đại.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể nhận ra và bóc tách được đặc điểm
của thời đại qua các lớp kiến trúc với từng thời điểm tạo dựng, tu bổ khác
nhau. Bởi vậy, việc nghiên cứu kiến trúc chùa để góp phần vào công tác trùng
tu, tôn tạo giữ nguyên được bản sắc kiến trúc cổ là hết sức quan trọng và cấp
thiết, đòi hỏi phải có nguồn tư liệu chân xác. Với những gì còn sót lại và bằng
những kết quả nghiên cứu của khảo cổ học lịch sử, đặc biệt cùng với việc
nghiên cứu bia đá thế kỷ XVII chúng ta cũng phần nào phác hoạ được hình
dáng cũng như đặc trưng kiến trúc của những ngôi chùa cổ trong giai đoạn
này.
1.3. Như nhiều nhà nghiên cứu chùa Việt đã từng nhận xét, thế kỷ XVII
là thế kỷ bùng nổ của các ngôi chùa lớn ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Trong
đó 13 huyện ngoại thành ở phía Tây và phía Nam Hà Nội (bao gồm: Thường
Tín, Phú Xuyên, Thạch Thất, Quốc Oai, Hoài Đức, Phúc Thọ, Sơn Tây, Ba
Vì, Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức, Chương Mỹ, Hà Đông) được sáp nhập từ
tỉnh Hà Tây cũ từ sau ngày 01.8.2008 đã có 469 ngôi chùa được xây dựng qua
các thời kỳ khác nhau, trong đó có 132 ngôi chùa được xếp hạng cấp Bộ, 47
ngôi chùa xếp hạng cấp tỉnh và 290 ngôi chùa chưa được xếp hạng1
, điều
đáng quan tâm là có 07 ngôi chùa đã được xếp vào loại di tích Quốc gia đặc
biệt
2
. Tuy nhiên, ở khu vực này có 38 ngôi chùa
3 có niên đại thế kỷ XVII,
1 Theo thống kê của Viện Bảo tồn Di tích.
2 Di tích Quốc gia đặc biệt gồm: chùa Hương- Mỹ Đức, chùa Đậu- Thường Tín, chùa Bối
Khê- Thanh Oai, chùa Thầy- Quốc Oai, chùa Mía, chùa Tây Phương- Sơn Tây (những
ngôi chùa này hiện nay hầu hết còn giữ đuợc kiến trúc thế kỷ XVII, chỉ riêng chùa Tây
Phương là kiến trúc thế kỷ XVIII). 3 Thống kê của Viện Bảo tồn Di tích thì: trong tổng số 469 ngôi chùa/ 13 huyện thì: Thời
Lý có 04 chùa, thời Trần có 01 chùa, thế kỷ XV có 01, thế kỷ XVI có 04 chùa, thế kỷ XVII
có 38 chùa, thế kỷ XVIII có 15 chùa, thế kỷ XIX có 307 chùa…
4
trong đó những ngôi chùa đảm bảo được cả hai yếu tố: vừa bảo lưu được giá
trị kiến trúc điêu khắc trang trí thế kỷ XVII, lại vừa lưu giữ được các tấm bia
đồng niên đại thì số lượng không nhiều, chỉ dừng lại ở con số 17 chùa với 29
tấm bia đá. Danh sách 17 ngôi chùa gồm chùa Bối Khê, chùa Đậu, chùa Cống
Xuyên, chùa Hưng Giáo, chùa Hương, chùa La Khê, chùa Lại An, chùa Lê
Dương, chùa Mía, chùa Mậu Lương, chùa Mui, chùa Nhị Khê, chùa Sổ, chùa
Thầy, chùa Thị Nguyên, chùa Trăm Gian, chùa Tường Phiêu. Những di tích
này chứa đựng nhiều nét đặc sắc trên mọi phương diện như lịch sử, văn hóa,
mỹ thuật, kiến trúc...
Với những lý do nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Bia đá
thế kỷ XVII của một số ngôi chùa ở ngoại thành Hà Nội (Khảo sát 10
huyện phía Tây và phía Nam Hà Nội)” với mong muốn đi sâu nghiên cứu từ
hình thức tới nội dung phản ánh của hệ thống bia đá thế kỷ XVII được dựng
tại các chùa Việt có đồng niên đại, nhằm mục đích góp phần hiểu thêm về lịch
sử, kiến trúc chùa Việt cũng như nghệ thuật điêu khắc trong giai đoạn lịch sử
này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Cho đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về bia đá được xuất bản.
Trong “Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã” của
PGS.TS. Phạm Thị Thuỳ Vinh xuất bản năm 2003, tác giả đi sâu vào khai
thác nội dung của toàn bộ văn bia xứ Kinh Bắc thời Lê (thời Lê Sơ và thời Lê
Trung Hưng), trong đó khai thác một cách khá kỹ lưỡng về vấn đề sinh hoạt
làng xã. Tác giả nghiên cứu về việc xây dựng các công trình công cộng về tín
ngưỡng (đình, chùa, văn chỉ, từ đường); các công trình phục vụ đời sống kinh
tế của cộng đồng (quán chợ, tu sửa cầu, bến đò…); sự tranh giành ruộng đất;
những khó khăn thường xuyên của các làng xã về sưu thuế, công dịch; vị trí
5
của người phụ nữ trong hoạt động của làng xã; vấn đề về giáp và tổ chức làng
xã được phản ánh qua bia đá… Ngoài ra, tác giả đã nghiên cứu về quá trình
tạo tác văn bản và trang trí hoa văn trên văn bia Kinh Bắc thời Lê. Đó chính là
cơ sở để chúng tôi so sánh với những bia đá trong các ngôi chùa ở xứ Kinh
Bắc với những bia đá ở 10 huyện phía Tây và phía Nam ngoại thành Hà Nội.
Bên cạnh đó“Một số vấn đề về văn bia Việt Nam” của Trịnh Khắc Mạnh
đi sâu phân tích các hình thức tồn tại và đặc điểm về văn bản, giá trị của văn
bia Việt Nam khi nghiên cứu tư tưởng chính trị, đời sống văn hoá xã hội, đặc
điểm thể loại văn học Việt Nam thời trung đại, văn bia chữ Nôm... Ngoài ra
tác giả đã chọn để giới thiệu 20 văn bia. Tuy nhiên, vấn đề chạm khắc trên bia
đá cũng như nội dung chung của văn bia tác giả chưa chú ý đề cập đến.
Trong lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu về mỹ thuật của các bia đá có thể
kể đến các cuốn“Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt” của
Trần Lâm Biền mang tính chất tổng hợp các loại hình trang trí từ thời Đông
Sơn cho đến thời Nguyễn trên tất cả các chất liệu, các loại hình bia đá, nhang
án, tượng, trên kiến trúc gỗ... Qua đó đưa ra những đặc điểm chung nhất về
mỹ thuật qua từng thời kỳ, chứ chưa đi sâu nghiên cứu những hình tượng
chạm khắc trên bia đá. Hay Chu Quang Trứ trong cuốn“Mỹ thuật Lý Trần -
Mỹ thuật Phật giáo Việt Nam” đề cập đến “Bia và văn bia chùa Việt Nam” từ
thời Lý cho đến thời Nguyễn [64; 441 - 487]
4
. Tuy nhiên, những mô tả này
cũng chỉ mang tính chất sơ lược và chưa đầy đủ về nội dung của một vài bia
đá tiêu biểu trong các di tích như chùa Đọi (Hà Nam), chùa Tây Phương (Hà
Nội)... Những ý nghĩa biểu tượng của mỹ thuật, trang trí chỉ đề cập đến một
cách sơ lược về những nét chạm khắc của một vài bia, chưa có nhận định
mang tính chất khái quát về chạm khắc bia đá qua từng thời kỳ.
4 Bài này cũng đã được đăng trên tạp chí Phật học số 3 năm 1997.
6
Ngoài ra, Viện Mỹ Thuật còn có những tác phẩm như “Mỹ thuật thời
Lý”, “Mỹ thuật thời Trần”, “Mỹ thuật thời Mạc”... Đây là những công trình
mang tính chuyên khảo cho từng thời kỳ, những biểu tượng chạm khắc được
nêu lên mang tính chất tổng hợp trên mọi chất liệu, mọi loại hình di tích; đồng
thời đây là những công trình để chúng tôi tìm hiểu thêm về phong cách nghệ
thuật thời kỳ trước đó, để thấy được những biến chuyển lớn trong nghệ thuật
chạm khắc dân gian thế kỷ XVII.
Một số khóa luận, luận án cũng bắt đầu đặt vấn đề nghiên cứu bia đá thế
kỷ XVII theo hướng tiếp cận mỹ thuật. Năm 1975, Tăng Bá Hoành đã nghiên
cứu “Sự chuyển biến hoa văn đến trang trí bia đá thế kỷ XVI - XVIII”. Với số
lượng 87 trang, tác giả đã đề cập đến các hình tượng trang trí trên bia đá trong
suốt 3 thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Tuy nhiên tác giả đã viết về trang trí bia đá
trong một thời kỳ khá dài, do đó việc tập trung vào phân tích, miêu tả những
bia đá trong giai đoạn thế kỷ XVII còn hạn chế, chỉ chú trọng vào việc mô tả
các hình tượng chạm khắc, chưa đưa ra được những đặc trưng riêng về trang
trí bia trong thời kỳ này. Đến năm 1979, Đặng Kim Ngọc đã có khoá
luận“Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật trang trí bia đá thế kỷ XV- XVIII”. Trong
đó tác giả chú trọng đến việc tìm hiểu hình tượng trang trí trên bia qua các
thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, không đi sâu vào hình dáng, kỹ thuật
chạm khắc, chưa đưa ra được các tiêu chí để phân biệt một cách chân xác đặc
điểm bia đá các thời kỳ, đặc biệt là thế kỷ XVII tác giả mới chỉ đề cập đến rất
sơ sài, cần được nghiên cứu sâu hơn nữa.
Luận án Tiến sĩ năm 2001 của Nguyễn Quốc Tuấn về“Di tích chùa Bối
Khê (Hà Tây)”, với phụ lục khá dày dặn, là bản dịch văn bia của chùa từ thế
kỷ XVII đến thế kỷ XIX, trong đó tác giả đã khai thác nội dung về thời điểm
tạo dựng và trùng tu chùa Bối Khê qua các thời kỳ khác nhau. Bên cạnh đó
luận án Tiến sĩ của Nguyễn Văn Tiến năm 2001 về “Di tích chùa Thầy (Hà
7
Tây)” cũng đã có những bản dịch bia đá, trong đó đã dịch 02 văn bia thế kỷ
XVII và trong phần chính văn cũng đã đề cập đến những lần trùng tu chùa.
Bên cạnh đó, luận văn Thạc sĩ của Phạm Thị Thu Hương (2000) về “chùa
Trăm Gian những giá trị văn hóa nghệ thuật”- trường Đại học Văn hóa đã đề
cập đến những lần trùng tu chùa qua văn bia, nhưng cũng rất sơ sài, phần phụ
lục chưa có các bản phiên âm, dịch nghĩa của những văn bia hiện còn trong
chùa.
Ngoài các công trình đã được xuất bản hoặc những luận án, luận văn còn
có một số bài viết về bia đá được đăng rải rác trên các tạp chí. Tạp chí Hán
Nôm có nhiều tác giả đã đề cập đến việc nghiên cứu bia đá. Tác giả Nguyễn
Huy Thức có bài “Bước đầu tìm hiểu văn bia ở một huyện thuộc đồng bằng
Bắc Bộ”; “Đôi nét về bia hậu” số 2 năm 1987 của Dương Thị Phe và Phạm
Thị Thoa; “Đặc điểm thể loại văn bia Việt Nam, tạp chí Hán Nôm, số 4, 1993
của Trịnh Khắc Mạnh; “Văn bia chợ Việt Nam - Giá trị tư liệu khi tìm hiểu
các vấn đề sinh hoạt xã hội thời phong kiến” số 5, năm 2006 hoặc “Một số
đặc điểm về nội dung và hình thức của văn bia Lê Sơ” đăng trên số 4 năm
2008 của tác giả Phạm Thị Thuỳ Vinh... Những bài viết này chỉ đề cập đến
một vài khía cạnh mà nội dung bia đá phản ánh qua các thời kỳ trên địa bàn
vùng đồng bằng Bắc Bộ như vấn đề về bầu hậu, hoạt động buôn bán ở các
làng xã... vấn đề tạo dựng và trùng tu các ngôi chùa qua văn bia hầu như chưa
được quan tâm nhiều.
Trên tạp chí Khảo cổ học có bài “Vài nét về tình hình sưu tầm và nghiên
cứu văn bia Việt Nam” của tác giả Hoàng Lê, số 2 năm 1982; hoặc “Tìm hiểu
nghệ thuật trang trí bia đá thế kỷ XVIII” của Lê Đình Phụng, số 2 năm 1987.
Bên cạnh đó, các tác giả nước ngoài cũng đã công bố một số công trình
nghiên cứu liên quan tới vấn đề bia đá ở Việt Nam. Năm 1982, M.Bernanse
đã viết“Nghệ thuật trang trí ở Bắc Kỳ” (tư liệu Bảo tàng Lịch sử Việt Nam)
8
trong đó ông có đề cập đến những đặc điểm trang trí trên các chất liệu gốm,
đá, gỗ... Tuy nhiên, học giả này cũng chỉ đưa ra những khái niệm chung nhất
cho tất cả các loại hình trang trí trên kiến trúc, chứ chưa có nhận định cụ thể
về chạm khắc trên bia đá.
Tại Matxcơva năm 1993 luận án Phó Tiến sĩ về “Văn bia Việt Nam”của
học giả người Nga là Phedorin, được xem xét dưới góc độ lịch sử. Ngoài ra
Phedorin có bài viết “Hệ phương pháp và một vài kết quả phân tích thống kê
tư liệu văn bia Việt Nam khi nghiên cứu lịch sử xã hội” (bản dịch của Trịnh
Khắc Mạnh) đăng trên tạp chí Hán Nôm số 2 năm 1992.
Tháng 11-1997“Bia Văn Miếu Hà Nội” được quỹ Agence de la
Francôphnie (ACCT) của Tổ chức hợp tác Văn hoá và Kỹ thuật của Cộng
đồng Pháp ngữ tài trợ xuất bản bằng song ngữ Pháp - Việt...
Các công trình của học giả nước ngoài về văn bia mới chỉ dừng lại ở
mức độ giới thiệu, phần nào phân tích về nội dung của giá trị văn bia, nhưng
chỉ đề cập một cách sơ lược, chưa có sự đúc rút việc tạo dựng trùng tu di tích,
nhất là những bia đá có giá trị về lịch sử - văn hóa - xã hội ở thế kỷ XVII,
đồng thời chưa có tác phẩm chuyên biệt nào nghiên cứu đến hình dáng, kỹ
thuật tạo tác và các hình thức trang trí bia đá thời kỳ này.
Tóm lại, có thể thấy rất hiếm những công trình nghiên cứu, những luận
án, luận văn đặt vấn đề kết hợp giữa nghiên cứu về chùa và nghiên cứu bia đá
trong giai đoạn thế kỷ XVII. Bởi vậy, giá trị của bia đá thế kỷ XVII chưa
được khai thác triệt để. Một trong những nội dung quan trọng của hệ thống
bia đá đó đề cập tới cách thức tạo dựng và trùng tu di tích chùa vẫn chưa được
khai thác. Việc khai thác nội dung này cần được quan tâm sâu hơn nữa, từ đó
góp phần bảo tồn và trùng tu những ngôi chùa cổ trong hiện tại và tương lai.
Đây cũng chính là mục đích mà luận văn hướng tới.