Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

(Luận Văn Thạc Sĩ) Bảo Hộ Sáng Chế Cho Dược Phẩm Theo Quy Định Của Hiệp Định Trips.pdf
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO TIẾN QUÂN
BẢO HỘ SÁNG CHẾ CHO DƢỢC PHẨM THEO
QUY ĐỊNH CỦA HIỆP ĐỊNH TRIPS
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO TIẾN QUÂN
BẢO HỘ SÁNG CHẾ CHO DƢỢC PHẨM THEO
QUY ĐỊNH CỦA HIỆP ĐỊNH TRIPS
Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 380108
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐOÀN NĂNG
Hà nội - 2014
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa Sau đại học và Khoa Luật
Quốc tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình tôi học tập, nghiên cứu chương
trình Thạc sĩ khoá XV tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến Phó Giáo sư -
Tiến sĩ Đoàn Năng, Bộ Khoa học và Công nghệ - Giảng viên Khoa Luật, Đại học
Quốc Gia Hà Nội người đã tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành
Luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên, cổ
vũ, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Đào Tiến Quân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
có tham khảo các bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả khác
và có dẫn nguồn cụ thể, các số liệu trích dẫn trong Luận văn hoàn toàn chính xác,
trung thực và có chỉ rõ nguồn.
Luận văn là công trình do tôi tự mình nghiên cứu, tìm hiểu, tổng hợp và hoàn
thiện, không sao chép. Kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình khoa học nào khác.
Người cam đoan
Đào Tiến Quân
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU Trang
1
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SÁNG CHẾ DƢỢC
PHẨM VÀ BẢO HỘ SÁNG CHẾ DƢỢC PHẨM
9
1.1. Khái niệm về sáng chế dược phẩm, bảo hộ sáng chế dược phẩm 9
1.2. Đặc điểm của việc bảo hộ sáng chế dược phẩm 10
1.3. Các dạng yêu cầu bảo hộ điển hình đối với sáng chế trong lĩnh vực
dược
12
1.4. Tính chất hai mặt của việc bảo hộ sáng chế dược phẩm 27
1.4.1. Lợi ích của việc bảo hộ sáng chế dược phẩm 27
1.4.2. Tác động tiêu cực của việc bảo hộ sáng chế dược phẩm 29
1.5. Ý nghĩa của việc bảo hộ sáng chế cho dược phẩm 31
1.6. Cơ sở pháp lý quốc tế bảo hộ sáng chế dược phẩm 33
Chƣơng 2
NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA HIỆP ĐỊNH TRIPS LIÊN QUAN
ĐẾN BẢO HỘ SÁNG CHẾ DƢỢC PHẨM
36
2.1. Khái quát về Hiệp định TRIPS 36
2.2. Các quy định của Hiệp định TRIPS về bảo hộ sáng chế dược phẩm 39
2.2.1. Đối tượng của bảo hộ sáng chế dược phẩm 41
2.2.2. Tiêu chuẩn cấp bằng sáng chế dược phẩm 44
2.2.3. Nghĩa vụ công bố thông tin 47
2.2.4. Ngoại lệ cấp bằng độc quyền sáng chế dược phẩm 49
2.2.5. Nhập khẩu song song 59
2.2.6. Thời hạn bảo hộ sáng chế dược phẩm 64
2.2.7. Quy định về bảo vệ quyền đối với sáng chế dược phẩm 65
2.2.8. Quy định về việc thực thi sáng chế dược phẩm 65
2.2.9. Thời gian chuyển tiếp 69
2.3. Tuyên bố Doha năm 2001 về Hiệp định TRIPS và Y tế công cộng 70
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG BẢO HỘ SÁNG CHẾ DƢỢC PHẨM TRÊN THẾ
GIỚI, Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
74
3.1. Thực trạng bảo hộ sáng chế dược phẩm trên thế giới 74
3.1.1. Thực trạng bảo hộ sáng chế dược phẩm tại Hoa Kỳ 74
3.1.2. Thực trạng bảo hộ sáng chế dược phẩm tại Thái Lan 75
3.1.3. Thực trạng bảo hộ sáng chế dược phẩm tại Ấn Độ 78
3.1.4. Thực trạng bảo hộ sáng chế dược phẩm tại Trung Quốc 80
3.2. Thực trạng bảo hộ sáng chế dược phẩm tại Việt Nam 81
3.2.1. Tổng quan về ngành dược của Việt Nam 81
3.2.2. Thực trạng bảo hộ sáng chế dược phẩm ở Việt Nam 84
3.3. Nguyên tắc và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo
hộ sáng chế dược phẩm
90
3.3.1. Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hội sáng chế
dược phẩm
90
3.3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ sáng
chế dược phẩm
94
3.3.2.1. Sửa đổi Điều 136 và Điều 142 Luật SHTT 97
3.3.2.2. Kiến nghị cần có quy định thống nhất trong Luật SHTT năm
2005 (sửa đổi năm 2009), Luật khám chữa bệnh năm 2009 và Luật
dược năm 2005.
97
3.3.2.3 Kiến nghị về việc Việt Nam phê chuẩn Nghị định thư sửa đổi Hiệp
định TRIPS
99
3.3.2.4. Các giải pháp khác hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ
sáng chế dược phẩm
105
3.3.2.5 Kiến nghị về sáng chế dược phẩm và khuyến nghị đối với Việt
Nam trong đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
106
KẾT LUẬN 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN: Association of South – East Asian
Nation
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
BBCGQSDSC Bắt buộc chuyển giao quyền
sử dụng sáng chế
“Evergreening” Là chiến lược đăng ký sáng chế bao gồm việc đăng ký sáng chế
cho những biến đổi nhỏ, thường là ít quan trọng, của sản phẩm
dược hoặc quy trình đã biết nhằm kéo dài một cách gián tiếp thời
hạn bảo hộ sáng chế cho hợp chất đã được cấp bằng độc quyền
sáng chế trước đó.
EPO: European Patent Office Cơ quan Sáng chế châu Âu
GPHI: Giải pháp hữu ích
NOIP: National Office of Intellectual
Property (of Vietnam)
Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam
OECD Organization for Economic Cooperation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế
PCT: Patent Cooperation Treaty Hiệp ước Hợp tác sáng chế
SHTT: Sở hữu trí tuệ
SHCN: Sở hữu công nghiệp
QCN: Quyền con người
Thuốc Generic Thuốc không được bảo hộ
sáng chế
TRIPs: Agreement on Trade-Related
Aspects of Intellectual Property
Rights
Hiệp định về các khía cạnh
liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ
USPTO: United States Patent and
Trademark Office
Cơ quan Sáng chế và Nhãn
hiệu Hoa Kỳ
WIPO: World Intellectual Property
Organization
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
1. Danh mục bảng
Bảng 3.1. Đơn sáng chế nộp tại Việt Nam từ năm 2005 tới 2010 84
Bảng 3.2. Đơn Giải pháp hữu ích nộp tại Việt Nam từ năm 2005 tới 2010 84
Bảng 3.3. Bằng độc quyền sáng chế cấp tại Việt Nam từ năm 2005 tới 2010 85
Bảng 3.4. Bằng độc quyền Giải pháp hữu ích cấp tại Việt Nam từ năm 2005
tới 2010
85
2. Danh mục sơ đồ, biểu đồ
Biểu đồ
3.1.
Dự báo tiền thuốc sử dụng sau 5 năm tại Việt Nam (các năm
2003-2014)
83
Biểu đồ
3.2.
Dự báo thị trường dược phẩm Việt Nam (các năm 2002-2013) 83
Biểu đồ
3.3.
Mối quan hệ giữa tổng số đơn sáng chế và đơn sáng chế dược
phẩm nộp tại Việt Nam (từ 2005 tới 2010) 86
Biểu đồ
3.4.
Mối quan hệ giữa tổng số đơn sáng chế và đơn sáng chế dược
phẩm nộp tại Việt Nam của người Việt Nam (từ 2005 tới 2010) 87
Biểu đồ
3.5.
Số lượng đơn sáng chế dược phẩm nộp tại Việt Nam (từ 2005 tới
2010)
88
Biểu đồ
3.6.
Số lượng Bằng độc quyền sáng chế dược phẩm được cấp tại Việt
Nam (từ 2005 tới 2010) 88
Biểu đồ
3.7.
Số đơn nộp và số bằng cấp ra trong lĩnh vực dược phẩm tại Việt
Nam (Từ 2005 tới 2010)
89
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc bảo hộ sáng chế tác động mạch mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh những tác động tích cực, bảo hộ sáng chế cũng có những ảnh hưởng tiêu
cực nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc bảo hộ sáng chế trở thành thách thức lớn
cho các quốc gia đang phát triển khi phải thực hiện các cam kết rất cao trong WTO
về bảo hộ quyền SHTT theo tiêu chuẩn của hiệp định TRIPS.
Với việc tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập năm 1994, một
điều ước toàn diện nhất về quyền sở hữu trí tuệ đã ra đời: Hiệp định về các khía
cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT (TRIPS). Hiệp định này đầu tiên
gắn kết các vấn đề về SHTT và thương mại và cung cấp một cơ chế đa phương cho
việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Hiệp định TRIPS yêu cầu tất cả các
thành viên WTO phải đưa vào luật của quốc gia mình những tiêu chuẩn quốc tế tối
thiểu cho hầu hết các quyền trong lĩnh vực này, như bản quyền tác giả, độc quyền
đối với sáng chế và nhãn hiệu. Hiệp định đã cơ bản hạn chế các quốc gia tự do thiết
lập và thi hành hệ thống sở hữu trí tuệ của họ. Theo Hiệp định, tất cả các nước
thành viên WTO buộc phải thực hiện thời hạn bảo hộ tối thiểu là 20 năm cho bất kỳ
sáng chế dược phẩm hay quy trình sản xuất dược phẩm nào đạt các tiêu chuẩn về
tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng. Nghĩa vụ này không được quy định
trong các điều ước quốc tế trước đó, vì không điều ước nào quy định các chuẩn mực
tối thiểu cho quyền SHTT. Trước khi đàm phán Hiệp định TRIPS, hơn 50 quốc gia
không bảo hộ các sáng chế dược, nhiều nước chỉ bảo hộ quy trình chứ không bảo hộ
sản phẩm, còn ở nhiều nước khác thì thời hạn bảo hộ sáng chế không đến 20 năm.
Phải thừa nhận rằng cơ chế hiện tại về bảo hộ sáng chế, vốn đã được “toàn
cầu hóa” theo Hiệp định TRIPS, có ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực dược.
Nhưng có thể thấy rằng các tiêu chuẩn của TRIPS không hẳn đã phù hợp với các
quốc gia đang cố gắng để đáp ứng các nhu cầu về y tế và phát triển. Do đó, Ủy ban
SHTT Anh (CIPR) trong báo cáo năm 2002 đã cảnh báo các quốc gia “phải đảm
2
bảo cơ chế bảo hộ quyền SHTT của họ không đi ngược lại các chính sách y tế cộng
đồng, và phải mang tính phù hợp và hỗ trợ cho những chính sách đó”.
Chúng ta có thể thấy thế giới chưa bao giờ có được một phương pháp điều trị
hàng loạt để chữa trị những căn bệnh mà con người đang phải chịu đựng. Trong khi
đó, nhiều người chết vì thiếu một số thuốc hoặc vacxin nào đó. Điều này không chỉ
đúng đối với các bệnh mới phát hiện như Ebola, bò điên, SARS, cúm tuýp A/H5N1,
cúm tuýp A/H1N1… mà còn đúng đối với những mối đe dọa nghiêm trọng từ sự
kháng thuốc trong các căn bệnh chết người như AISD, lao, viêm màng não, viêm
phổi.
Để phát triển những loại thuốc mới, phải có một cơ chế thúc đẩy đổi mới và
phát triển sản phẩm mới, trong khi cùng lúc phải đảm bảo rằng người bệnh có thể
nhanh chóng tiếp cận được thành quả của những nghiên cứu này.
Việc thông qua tuyên bố Bộ trưởng Doha về Hiệp định TRIPS và Sức khỏe
cộng đồng là kết quả của mối quan tâm ngày càng gia tăng về cách mà các hiệp
định thương mại quốc tế, nhất là Hiệp định TRIPS của WTO có thể hạn chế khả
năng tiếp cận thuốc. Tuyên bố đã ghi một dấu ấn quan trọng trong cuộc chiến giữa
quyền SHTT và quyền tiếp cận thuốc, bằng việc khẳng định rằng Hiệp định TRIPS
có thể được hiểu và được thực hiện theo cách hỗ trợ các quốc gia có thể áp dụng các
biện pháp để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và thúc đẩy khả năng tiếp cận thuốc. Một
quy định linh hoạt TRIPS nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng và thúc đẩy khả năng
tiếp cận thuốc. Một quy định linh hoạt quan trọng trong lĩnh vực này là các nước
thành viên WTO có quyền xác định các tiêu chí bảo hộ như quy định trong TRIPS
sao cho phù hợp với những đặc điểm riêng của quốc gia mình. Đây có thể là một
công cụ hữu hiệu nhằm thúc đẩy những dược phẩm thực sự mới và có trịnh độ sáng
tạo.
Lĩnh vực dược là một trong số các lĩnh vực kỹ thuật chính trong hệ thống
đăng ký bảo hộ sáng chế. Trong khi chỉ có một số lượng nhỏ và ngày càng cắt giảm
- các thực thể hóa học mới được cấp đăng ký lưu hành mỗi năm, thì có đến hàng
nghìn đơn đăng ký sáng chế được nộp nhằm mục đích bảo hộ các biến thể khác
nhau của sản phẩm, quy trình sản xuất vốn đã tồn tại, hoặc nếu được cấp phép, là
bảo hộ cho các chỉ định thứ lần thứ hai của sản phẩm dược đã biết.
3
Do bằng độc quyền sáng chế mang lại độc quyền cho việc sản xuất, bán và
sử dụng đối tượng được bảo hộ, nên chúng có thể được sử dụng để hạn chế cạnh
trạnh và đưa ra giá bán cao hơn với giá trị của nó trong trường hợp có các sản phẩm
cạnh tranh. Đây là mục đích chính của hệ thống bảo hộ sáng chế, một hệ thống nhìn
chung được coi là cần thiết để khuyết khích đầu tư nhằm phát triển các sản phẩm và
quy trình mới.
Việc bảo hộ sáng chế có thể ảnh hưởng đáng kể đến cạnh tranh và theo đó là
giá thuốc, nên các tiêu chuẩn được áp dụng trong công tác thẩm định và cấp bằng
độc quyền đối với sáng chế trong lĩnh vực dược không những có liên quan đến
chính chính sách bảo hộ sáng chế và công nghiệp, mà còn liên quan mật thiết dến
chính sách y tế cộng đồng. Các nhà hoạch định chính sách trong lĩnh vực y tế, cần
nhận thức được rằng các quyết định liên quan tới việc cấp bằng độc quyền sáng chế
(được coi là có hiệu lực cho đến khi có bằng chứng để hủy bỏ hiệu lực) có thể tác
động trực tiếp tới công tác y tế và đời sống của nhân dân ở quốc gia nơi sáng chế
được bảo hộ và thực thi.
Ở Việt Nam Công nghiệp dược vẫn phát triển ở mức trung bình - thấp, chưa
sáng chế được thuốc mới và hiện chỉ có hơn 52% doanh nghiệp dược đủ tiêu chuẩn
sản xuất thuốc. Thuốc sản xuất trong nước chủ yếu là thuốc đồng dạng (generic),
không có giá trị cao, mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu tiêu thụ thuốc nội địa.
Nguyên liệu phải nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Ấn Độ, khiến cho các doanh
nghiệp dược trong nước phải đối mặt với các khó khăn về giá. Trình độ công nghệ
thấp trong khi nguồn nhân lực có trình độ còn ít, cản trở việc tiếp cận công nghệ, cải
thiện quy mô sản xuất của công nghiệp dược trong nước. Bên cạnh đó, đặc biệt
quan trọng trong lĩnh vực bảo hộ sáng chế dược phẩm là cân bằng lợi ích giữa chủ
sở hữu sáng chế và lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia là nguyên tắc cơ bản, xuyên
suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng như thực thi pháp luật trên
thực tế. Việc tăng cường bảo hộ mạnh quyền SHTT khi Việt Nam hội nhập sâu vào
quá trình toàn cầu hóa sẽ mang đến cho Việt Nam nhiều thách thức hơn là cơ hội.
Xuất phát từ thực tế trên, là học viên cao học chuyên ngành Luật Quốc tế,
học viên đã lựa chọn đề tài: “Bảo hộ sáng chế cho dược phẩm theo quy định của
hiệp định TRIPS” cho luận văn tốt nghiệp.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
2.1. Trên thế giới:
Trên thế giới khái niệm “bảo hộ sáng chế” đã ra đời từ rất sớm. Nhưng đối
với “bảo hộ sáng chế dược phẩm” thì trong lịch sử, bằng sáng chế đối với sản phẩm
này đã bị loại trừ ở các nước phát triển nhất. Ở Pháp, bảo vệ bằng sáng chế dược
phẩm bị pháp luật cấm từ ngày 5/7/1844 và mãi đến ngày 2/1/1966 Pháp luật mới
phát triển và giới hạn bằng sáng chế đối với sản phẩm này. Ở Đức, bằng sáng chế
với dược phẩm đã bị loại trừ theo Luật từ ngày 25/5/1877 và chỉ được pháp luật bảo
hộ lại từ ngày 4/9/1967. Tại Thụy Sĩ, bằng sáng chế cho sản phẩm dược đã bị cấm
trong Hiến pháp trong một thời gian dài và chỉ được giới thiệu vào năm 1977. Ở Ý,
bằng sáng chế dược phẩm đã bị cấm đến năm 1978. Còn ở Tây Ban Nha, bằng sáng
chế dược phẩm đã được giới thiệu vào năm 1986 như một hệ quả cho việc gia nhập
vào cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC). Tương tự, sản phẩm dược được cấp bằng
sáng chế cũng bị loại trừ ở các nước đang phát triển. Gần 50 nước đang phát triển
không cấp bằng bảo hộ cho các loại thuốc cho đến khi vòng đám phán Urugoay đã
bắt đầu vào năm 1986 và thật sự phát triển khi Hiệp định TRIPS ra đời, và những
năm gần đây nó đã thật sự bùng nổ mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi [44, tr.4]. Hàng
loạt công trình nghiên cứu được công bố tại các hội thảo:
- Presentation: “Intellectual Property Issues Facing the Pharmaceutical
Industry,” Protecting Intellectual Property Rights in the Global Marketplace, US
State Department Program for Latin American Intellectual Property Specialists,
Washington, DC, June 16, 2005 (Trình bày: "Đối mặt với vấn đề sở hữu trí tuệ công
nghiệp dược phẩm," Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong các thị trường toàn cầu,
Chương trình của Bộ Ngoại giao Mỹ cho chuyên gia người Mỹ Latin về Sở hữu trí
tuệ, Washington, DC, 16 tháng sáu năm 2005);
- Presentation: “TRIPs, Doha, Cancun and Access to Medicines,” Meeting of
the General Counsels‟ Committee, BIO (Biotechnology Industry Association),
Boston, MA, October 20, 2003 (Trình bày: "TRIPs, Doha, Cancun và tiếp cận
thuốc," Hội nghị của Ủy ban Tư vấn, BIO (Hiệp hội Công nghiệp Công nghệ sinh
học), Boston, MA, ngày 20 Tháng Mười năm 2003);