Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam
PREMIUM
Số trang
167
Kích thước
1.9 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1008

Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Học viện Tài chính

Trần Trọng Hưng

Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước

cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam

Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng

2015

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam đang tiếp tục mở rộng quy mô và

đã bước qua cột mốc từ giáo dục đại học “tinh hoa” sang giáo dục đại học “đại

trà”. Hệ thống giáo dục đại học phục vụ cho “học tập suốt đời” cũng đã được

từng bước hình thành ở nước ta. Ngoài ra, trong lộ trình toàn cầu hóa, ngay

trên đất nước Việt Nam đã có nhiều chương trình đào tạo dạng liên kết

(Twinning/ Joint program) do nước ngoài cấp bằng và có nhiều chi nhánh đại

học (branch campus) của nước ngoài ở Việt Nam.

Trong bối cảnh hiện nay, nhiều vấn đề đã trở nên hết sức gay cấn đối với

giáo dục đại học Việt nam. Ngân sách Nhà nước tính trên đầu sinh viên đã giảm

xuống rất nhanh, một mặt, tạo ra nguy cơ giảm sút chất lượng đào tạo, mặt

khác, buộc phải tăng học phí làm giảm khả năng tiếp cận giáo dục đại học của

nhiều thanh niên, và sẽ có một tầng lớp thanh niên bị cảm giác thất bại, làm

trầm trọng thêm vấn đề công bằng trong giáo dục đại học.

Quy mô và sự đa dạng nền giáo dục đại học sẽ vượt quá khả năng quản

lý và tầm kiểm soát của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) nếu không đổi mới

mạnh mẽ cách thức quản lý. Nhiều vấn đề rất cơ bản của nền giáo dục đại học

vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo, ví dụ như Chiến lược chủ động hội nhập

toàn cầu hóa về giáo dục đại học, chính sách du học, tổ chức phân tầng nền

giáo dục đại học, hiệu quả và hiệu suất trong giáo dục đại học, chính sách chia

sẻ chi phí giữa Nhà nước, người học và cộng đồng, chính sách học bổng, học

phí, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục đại học, chính sách tài chính ở

các trường đại học ngoài công lập vv…

Có thể nói rằng, việc đổi mới tổ chức quản lý cũng như tổ chức nghiên

cứu, thiết kế các chính sách công về giáo dục đại học đã thực sự trở thành một

nhu cầu hết sức cấp bách. Việc nghiên cứu hệ thống quản lý cũng như các

chính sách công tương ứng cần được tổ chức một cách chuyên nghiệp, khi các

trường đại học công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Với xu thế phát triển mạnh mẽ nền kinh tế tri thức trên thế giới, và cùng

với đó là tiến trình xã hội hóa giáo dục ngày càng được đẩy mạnh, trước sự

2

cạnh tranh của các cơ sở đào tạo đại học khác và việc thực hiện cơ chế tự chủ

tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, buộc các trường đại học công

lập ở Việt Nam phải nghiên cứu, đổi mới hoạt động giáo dục đào tạo một cách

hiệu quả để thực hiện sứ mệnh được giao. Để thực hiện được những nhiệm vụ

đó, vấn đề nguồn tài chính phục vụ cho các hoạt động giáo dục của các trường

đại học trở nên quan trọng. Trong điều kiện khả năng của ngân sách Nhà nước

còn hạn chế, bên cạnh việc tăng cường tính tự chủ, đặc biệt là tự chủ về tài

chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, thì cần thiết phải xây dựng một cơ

chế, một hành lang pháp lý cho các trường cộng lập huy động được các nguồn

vốn ngoài kinh phí ngân sách nhà nước (gọi chung là nguồn tài chính ngoài

ngân sách nhà nước), nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học

và phục vụ việc phát triển các hoạt động của trường. Chính vì vậy, việc tăng

cường huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước trong các trường

đại học công lập ở Việt Nam là thực sự cần thiết nhằm phát huy tính chủ động

của các trường để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục đại học.

Xuất phát từ lý do nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Huy động

nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở

Việt Nam”.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

- Trình bày có hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguồn

tài chính ngoài kinh phí ngân sách nhà nước (gọi chung là nguồn tài chính

ngoài ngân sách nhà nước) đầu tư cho giáo dục đại học; vai trò nguồn tài chính

ngoài ngân sách và các nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn tài chính ngoài

ngân sách; kinh nghiệm huy động các nguồn tài chính trong một số trường đại

học trên thế giới.

- Phân tích, đánh giá thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài ngân

sách trong các trường đại học công lập Việt Nam thời gian qua , từ đó tìm ra

nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quá

trình huy đôṇ g nguồn tà

i chính

ngoài ngân sách nhà nước.

- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường huy động nguồn tài chính

ngoài ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam giai đoạn

2015-2020.

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề lý luận về cơ chế, chính sách, hệ

thống tổ chức về huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước và thực

tiễn huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước trong các trường đại

học công lập ở Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu về cơ chế, chính sách

huy động và thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước

cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam.

- Về không gian và thời gian: trên cơ sở vận dụng lý luận, kinh nghiệm

quốc tế để khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng huy động nguồn tài chính

ngoài ngân sách nhà nước trong các trường đại học công lập ở Việt Nam giai

đoạn 2005 – 2013, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cả về cơ chế,

chính sách cũng như biện pháp tăng cường huy động nguồn tài chính ngoài

ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập Việt Nam đến năm 2020.

4. Phương pháp nghiên cứu của luận án

- Luận án đã sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề, đảm bảo tính toàn

diện, tính hệ thống, tính thực tiễn và logic.

- Luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác trong

lĩnh vực kinh tế như phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống, diễn giải,

so sánh….

- Lý luận của kinh tế học được sử dụng như là một công cụ quan trọng

làm sáng tỏ và luận giải có cơ sở khoa học cho việc phân tích các nguồn tài

chính trong trường đại học công lập ở Việt Nam.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn về các nguồn tài chính

ngoài ngân sách đối với các trường đại học công lập ở Việt Nam, luận án hy

vọng sẽ có những đóng góp sau:

- Hệ thống những vấn đề lý luận về giáo dục đại học và các nguồn tài

chính ngoài ngân sách nhà nước.

- Thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài Ngân sách nhà nước trong

các trường đại học công lập ở Việt Nam.

4

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và dựa vào

kinh nghiệm huy động nguồn tài chính trong một số trường đại học của một số

nước trên thế giới, luận án sẽ đề xuất các giải pháp huy động nguồn tài chính

ngoài ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học công lập ở Việt Nam.

6. Kết cấu của luận án

Kết cấu chính của luận án gồm 3 chương:

Chương 1: Giáo dục đại học và nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà

nước cho giáo dục đại học công lập.

Chương 2: Thực trạng huy động nguồn tài chính ngoài Ngân sách nhà

nước trong các trường đại học công lập ở Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp huy động nguồn tài chính ngoài Ngân sách cho

giáo dục đại học công lập ở Việt Nam.

5

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Lý thuyết về tài chính công được phát triển và chú ý ở Việt Nam trong

thời gian gần đây, khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường và có hội nhập

sâu rộng với thế giới. Hiện nay, trong các trường đại học khối kinh tế, môn học

này đã được đưa vào giảng dạy. Cuốn tài liệu “Tài chính công” của tác giả Sử

Đình Thành [64] nghiên cứu về tài chính công được sử dụng rất phổ biến trong

nghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học. Tài liệu về đổi mới tài chính các

đơn vị sự nghiệp công lập của tác giả Phan Thị Cúc [60] là tài liệu rất hữu ích

đối với những người làm công tác quản lý tài chính và các nhà khoa học nghiên

cứu về vấn đề này.

Quản lý tài chính đối với GDĐH cũng là một bộ phận của nền tài chính

công, chịu sự điều tiết, chi phối bởi những cơ chế, quy định chung của quản lý

nhà nước, nhưng cũng có những đặc trưng riêng biệt xuất phát từ vai trò và vị

trí quan trọng của trường đại học trong xã hội. Đổi mới cơ chế hoạt động tài

chính GDĐH là một nội dung quan trọng trong Chương trình hành động của

Chính phủ thực hiện Thông báo kết luận số 37- TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ

Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công

lập”.

Vấn đề huy động các nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục đại

học đã thu hút và nhận được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, các

nhà quản lý trong nước. Các công trình khoa học trong lĩnh vực này khá phong

phú với ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau tùy theo cách tiếp cận. Các

bài báo, tạp chí bàn về vấn đề tài chính công, quản lý chi tiêu công, huy động

các nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục đại học rất phong phú; đối

tượng nghiên cứu khá rộng và nhiều giải pháp được đề xuất mang tính định

hướng cho toàn bộ hệ thống. Các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này có thể

kể đến rất nhiều bài viết của Giáo sư Phạm Phụ, bài “7 kiến nghị về chính sách/

giải pháp cho giáo dục đại học” [56], đã nêu các vấn đề về cơ chế tài chính đối

với GDĐH và các kiến nghị đối với các cấp quản lý. Bài viết “Học phí đại học

và vấn đề giải trình trách nhiệm - thực tiễn quốc tế và đề xuất cho Việt Nam”

[58] và bài “Khái niệm trường đại học nghiên cứu và các tiêu chí nhận diện đại

học nghiên cứu” [57] của TS. Phạm Thị Ly đã đề cập đến cơ chế tài chính cho

6

GDĐH ở các nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam. Các công trình này

rất có giá trị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước khi triển khai các đổi mới

cơ chế tài chính và huy động nguồn lực tài chính cho GDĐH.

Các công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, khá "gần" với lĩnh vực

nghiên cứu của đề tài phải kể đến các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Đây

cũng là nhóm công trình có số lượng lớn và nghiên cứu khá toàn diện về các

vấn đề liên quan đến cơ chế quản lý tài chính nói chung, tài chính cho giáo dục

và GDĐH nói riêng. Tác giả Đặng Văn Du với luận án: "Các giải pháp nâng

cao hiệu quả đầu tư tài chính cho đào tạo đại học ở Việt Nam" [43] đã phân

tích khá sâu sắc về đầu tư tài chính cho đào tạo đại học. Luận án đã xây dựng

các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư tài chính cho GDĐH ở Việt Nam, phân

tích thực trạng và đánh giá hiệu quả đầu tư tài chính qua các tiêu chí được xây

dựng, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả

đầu tư tài chính cho GDĐH ở nước ta. Tuy nhiên, phạm vi và đối tượng nghiên

cứu của đề tài này tập trung vào hiệu quả đầu tư tài chính đối với GDĐH nói

chung, chưa đề cập đến cơ chế thu hút nguồn lực tài chính ngoài ngân sách cho

các trường đại học công lập Việt Nam. Luận án của tác giả Lê Phước Minh với

đề tài: "Hoàn thiện chính sách tài chính cho giáo dục đại học Việt Nam" [46]

đã tập trung nghiên cứu chính sách tài chính cho GDĐH. Luận án đã đi sâu

phân tích thực trạng chính sách tài chính cho giáo dục ở Việt Nam, làm rõ các

cơ hội, thách thức và đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách

tài chính cho GDĐH ở nước ta, đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tăng thu

nhập, giảm chi phí và tính toán chi phí đơn vị, tỷ lệ thu hồi đầu tư trong giáo

dục đại học. Với góc độ tiếp cận nhằm phân tích chính sách tài chính cho

GDĐH nên những kết quả đóng góp của Luận án có giá trị tham khảo tốt với

các cơ quan quản lý vĩ mô, tuy nhiên luận án cũng chưa đề cập đến những bất

cập trong việc thu hút và sử dụng nguồn tài chính ngoài ngân sách trong các

trường đại học công lập ở Việt nam. Tác giả Bùi Tiến Hanh với luận án tiến sỹ

“Hoàn thiện cơ chế tài chính nhằm thúc đẩy xã hội hóa giáo dục Việt Nam”

[23] đã nghiên cứu và luận giải cơ chế để thực hiện xã hội hóa giáo dục, cơ chế

quản lý tài chính công đối với giáo dục công lập, cơ chế khuyến khích và quản

lý đối với hoạt động giáo dục ngoài công lập, cơ chế thu và sử dụng học phí,...

Tuy nhiên trong nghiên cứu của tác giả, phương pháp tiếp cận về chính sách

7

học phí vẫn bị ảnh hưởng bởi quan điểm coi học phí là nguồn thu thuộc NSNN,

nghiên cứu chưa coi GDĐH là một loại hàng hóa và mang lại lợi ích, người

được hưởng lợi ích phải chịu chi trả chi phí tương xứng với chất lượng hàng

hóa theo quan điểm chia sẻ chi phí.

Nhóm công trình nghiên cứu về cơ chế quản lý tài chính ở các trường

đại học trọng điểm Việt Nam, trường hợp là ĐHQG Hà Nội phải kể tới luận án

“Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của ĐHQG Hà Nội trong tiến trình đổi

mới quản lý tài chính công ở nước ta hiện nay” của tác giả Phạm Văn Ngọc

[59]. Trong đó cơ chế quản lý tài chính của ĐHQG Hà Nội đã được phân tích

sâu sắc, toàn diện trong bối cảnh đổi mới quản lý tài chính công ở Việt Nam và

đổi mới GDĐH. Luận án đã đề xuất các giải pháp khả thi trong việc hoàn thiện

quản lý tài chính phù hợp với mô hình ĐHQG Hà Nội, với sứ mạng là đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao cho đất nước.

Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cũng có khá nhiều công trình

nghiên cứu có giá trị, gần với lĩnh vực của đề tài. Tài chính công là nội dung

nghiên cứu xuất phát từ các nước có nền kinh tế phát triển, lý thuyết về tài

chính công không ngừng được bổ sung và hoàn thiện. Các tài liệu nghiên cứu

về tài chính công của các tác giả như Alan [76], Holley [79] đã thu hút được sự

chú ý của đông đảo các nhà quản lý và nhà nghiên cứu về kinh tế, sinh viên các

ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng,... Bộ sách về quản trị công và trách nhiệm

giải trình Lập ngân sách và các thiết chế ngân sách (bản dịch tài liệu của Dự án

Tăng cường năng lực quyết định và giám sát ngân sách của các cơ quan dân cử

Việt Nam, Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc hội, cũng đã trình bày các lý

thuyết về các phương pháp lập ngân sách, cải cách chi tiêu công và kinh

nghiệm của các nước trên thế giới rất có giá trị tham khảo đối với các nhà quản

lý tài chính công. Tuy nhiên, các vấn đề được nêu ra trong cuốn sách cũng

chưa đề cập đến cách thức và giải pháp huy động các nguồn lực tài chính ngoài

ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học.

Công trình nghiên cứu mang tính hệ thống và "gần" với lĩnh vực nghiên

cứu của đề tài luận án cần kể đến tài liệu “Quản lý trường đại học trong

GDĐH” [2]. Tài liệu này dành cho các nhà quy hoạch giáo dục, cán bộ quản lý

trường đại học và các nhà nghiên cứu về quản lý giáo dục. Với những mô đun

về quản lý trường đại học trong GDĐH, tài liệu đã trình bày khái quát về công

8

tác quản lý trong GDĐH, từ đó làm nổi bật ba chủ đề cơ bản: quản lý tài chính,

quản lý nhân lực và quản lý nguồn lực cơ sở vật chất. Tài liệu này chủ yếu đề

cập vấn đề quản lý và sử dụng tài chính, chưa đề cập nhiều tới vấn đề huy động

các nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học.

Về vấn đề phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ

sở giáo dục đại học, đã có nhiều bài tham luận về đổi mới cơ chế tài chính, và

đề xuất các giải pháp để giao quyền tự chủ tài chính cho các trường đại học

công lập. Đồng thời nhiều bài báo cũng cho rằng ở trạng thái tự chủ hoàn toàn

về lý thuyết, các trường sẽ được tự chủ tất cả các quyền quyết định các yếu tố

tác động tới nguồn thu và việc chi tiêu tài chính.

Dưới một góc nhìn khác, trong cơ chế thị trường, giáo dục đại học là

một dịch vụ đặc biệt và cơ sở giáo dục đại học cần được coi như là một doanh

nghiệp, được thành lập và hoạt động theo quy định của nhà nước và do Chính

phủ hay tư nhân sở hữu. Theo hướng nghiên cứu này, Phạm Chí Thanh (2011)

về “Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công ở Việt nam”

[55], TS Nguyễn Trường Giang (2013) trong bài tham luận “Đổi mới cơ chế tài

chính gắn với nâng cao chất lượng đào tạo đại học, thực hiện mục tiêu công

bằng hiệu quả” [45] cho rằng các trường đại học cần được nhà nước giao vốn

và bảo toàn phát triển vốn, được quyết định việc sử dụng tài sản, huy động vốn,

góp vốn liên doanh, liên kết.

Về vấn đề huy động nguồn tài chính cho giáo dục đại học, thông qua

việc xã hội hóa các nguồn lực, tác giả Trần Xuân Hải (1999) cho rằng cần huy

động nguồn vốn từ nội bộ cơ sở giáo dục đại học thông qua các hình thức hợp

đồng cung cấp dịch vụ giáo dục đại học, khuyến khích sự đóng góp, tài trợ của

các tổ chức, cá nhân[68]. TS Trần Xuân Trường (2012) đã tổng kết hai phương

thức thực hiện xã hội hóa các nguồn lực cho giáo dục đại học, thứ nhất là liên

kết giữa trường với doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động, thông qua hỗ trợ

học bổng, kinh phí đào tạo và đặt ra yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của người

được đào tạo, trao đổi các cán bộ tham gia một số nội dung giảng dạy, thứ hai

là huy động từ đội ngũ cán bộ, giáo viên của trường thông qua góp vốn cổ

phần. GS.TS Hoàng Văn Châu (2013) trong bài tham luận “Tự đảm bảo kinh

phí của trường đại học Ngoại thương và đề xuất cơ chế tài chính”[45] cho rằng

đối với các chương trình đào tạo, cung cấp dịch vụ theo nhu cầu xã hội, các

9

mức thu và khoản thu được xây dựng dựa trên cơ sở thỏa thuận, đảm bảo cân

đối các khoản chi và có tích lũy.

Có thể nói, dưới nhiều góc độ khác nhau, các bài báo, các tham luận

khoa học, các công trình nghiên cứu khoa học, và một số luận án tiến sĩ gần

đây đã phân tích khá toàn diện cõ chế quản lý tài chính, chính sách tài chính

đối với giáo dục đại học và tình hình tài chính của các cơ sở giáo dục đại học.

Số lượng các công trình nghiên cứu khá đồ sộ, tập trung nghiên cứu ở nhiều

khía cạnh về quản lý tài chính, điều hành ngân sách giáo dục đào tạo theo

hướng tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học từ quản lý vĩ mô

đến cơ chế, chính sách, tiêu chí cụ thể, ... nhưng chưa có một công trình nào

nghiên cứu một cách toàn diện về cơ chế huy động và quản lý nguồn tài chính

ngoài ngân sách trong các trường đại học công lập hiện nay, chưa đề xuất các

giải pháp cho việc huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước theo

hướng đảm bảo điều kiện về nguồn tài chính để đảm bảo chất lượng hoạt động

của các trường đại học công lập.

Để đảm bảo đủ khả năng tài chính cho hoạt động của các trường đại

học công lập, trong điều kiện ngân sách nhà nước rất hạn hẹp, yêu cầu đảm bảo

chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học của các trường đại học công lập mang

tính cấp thiết trong bối cảnh hiện nay và vì vậy, việc đảm bảo nguồn tài chính

cho các trường đại học công lập Việt Nam cũng là yêu cầu cấp thiết. Đây chính

là khoảng trống trong nghiên cứu hiện nay và mục đích nghiên cứu của đề tài

của nghiên cứu sinh đã tập trung giải quyết được khoảng trống của các nghiên

cứu hiện nay.

Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ đóng góp cả về lý luận và thực

tiễn liên quan đến cơ chế huy động và quản lý nguồn tài chính ngoài ngân sách

nhà nước trong các trường đại học công lập, nhằm góp phần đạt được mục tiêu

và nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu trong các trường đại học công

lập Việt Nam hiện nay.

10

Chương 1

GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ HUY ĐỘNG

NGUỒN TÀI CHÍNH NGOÀI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP

1.1 Giáo dục đại học với phát triển kinh tế xã hội

1.1.1. Đặc điểm của giáo dục đại học

Sựphá

t triển maṇ h mẽcủa khoa hoc̣ công nghê ̣taọ ra sựthay đổi lớn

trong cấu trúc ngành nghề, công viêc̣ . Công nghê ̣thông tin cho phép các công

ty tá

i cơ cấu laị quy trình sản xuất theo hướng sử duṇ g công nghê ̣phức tap̣

hơn, cần í

t lao đôṇ g hơn vớ

i năng suất lao đôṇ g cao hơn . Măc̣ dù

, trong môṭ số

ít lĩnh vực, do máy móc đãđảm nhiêṃ phần lớn các nhiêṃ vu ̣phức tap̣ nên chỉ

cần môṭ số lao đôṇ g í

t kỹnăng hơn , nhưng ở phần lớn các liñh vưc̣ , để quản lý

và vận hành công nghệ mới , nhu cầu về lao đôṇ g có kỹnăng cao laị tăng lên .

Thêm vào đó

, toàn cầu hóa làm cho cạnh tranh giữa các công ty trở nên khốc

liêṭ hơn. Sựthay đổi trong cấu trúc công viêc̣ côṇ g vớ

i áp lực caṇ h tranh khiến

cho nhu cầu đào taọ đaị hoc̣ – đươc̣ cho là nơi cung cấp nguồn nhân lưc̣ có kỹ

năng và

trình đô ̣chuyên môn cao ngày càng tăng lên.

Giáo dục đại học không trực tiếp tạo ra sản phẩm vật chất cho xã hội . Tuy

nhiên, giáo dục đại học sản sinh ra lực lượng lao động có trình độ , kỹ năng cao

góp phần tăng năng suất lao động , cải thiện đời sống của mọi thành viên trong

xã hội.

Theo luật Giáo dục Đại học Việt nam năm 2012, thì giáo dục đại học đào

tạo bốn trình độ, gồm:

- Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tuỳ theo

ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc

bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có

bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành;

- Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tuỳ theo

ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc

bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có

11

bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm

học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành.

- Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với

người có bằng tốt nghiệp đại học;

- Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người

có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc

sĩ.

Giáo dục đại học là một dây chuyền sản xuất mà đầu ra là nguồn nhân lực

đạt chuẩn. Theo quan điểm này, giáo dục đại học là một quá trình trong đó

người học được quan niệm như những sản phẩm được cung ứng cho thị trường

lao động. Như vậy, giáo dục đại học trở thành “đầu vào” tạo nên sự phát triển

và tăng trưởng của thương mại và công nghiệp.

Giáo dục đại học là đào tạo để trở thành nhà nghiên cứu.Theo cách nhìn

này, giáo dục đại học là thời gian chuẩn bị để tạo ra những nhà khoa học và

nhà nghiên cứu thực thụ, những người sẽ không ngừng tìm những chân trời

kiến thức mới. Chất lượng ở đây hướng về việc tạo ra các công bố khoa học và

tinh thần làm việc nghiêm túc để thực hiện các nghiên cứu có chất lượng.

Giáo dục đại học là quản lý việc tổ chức giảng dạy một cách hiệu quả. Rất

nhiều người cho rằng giảng dạy là hoạt động cốt lõi của một cơ sở giáo dục.

Do vậy, các cơ sở giáo dục đại học thường chú trọng quản lý một cách hiệu

quả các hoạt động dạy và học bằng cách nâng cao chất lượng giảng dạy và

nâng cao tỷ lệ kết thúc khóa học của sinh viên.

Giáo dục đại học tạo điều kiện mở rộng cơ hội trong cuộc sống cho người

học. Theo cách tiếp cận này, giáo dục đại học được xem như một cơ hội để

người học được tham gia vào quá trình phát triển bản thân.

Vì vậy, khi nhìn vào hoạt động của các trường đại học, chúng ta có thể dễ

dàng nhận ra ba chức năng cơ bản đó là giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao

ứng dụng.

Thực ra, khi phân tích kỹ những quan điểm khác nhau về giáo dục đại

học, chúng ta có thể kể ra nhiều vai trò khác nhau của giáo dục đại học trong

xã hội. Giáo dục đại học đóng vai trò là “hệ thống nuôi dưỡng” của mọi lĩnh

vực trong đời sống, là nguồn cung cấp nhân lực tối cần thiết để phục vụ các

công tác quản lý, quy hoạch, thiết kế, giảng dạy và nghiên cứu. Một quốc gia

12

muốn phát triển về khoa học công nghệ và tăng trưởng về kinh tế thì nhất thiết

phải có cả hai yếu tố: một hệ thống giáo dục đại học và một lực lượng lao

động. Giáo dục đại học còn tạo ra các cơ hội cho học tập suốt đời, cho phép

con người cập nhật các kiến thức và kỹ năng thường xuyên theo nhu cầu của xã

hội.

Giáo dục đại học bao gồm các cơ sở giáo dục đại học, mà nong cốt và

đóng vai trò hạt nhân là các trường đại học.

Trường đại học (University) là một cơ sở giáo dục bậc cao tiếp theo bậc

trung học dành cho những học sinh có khả năng và nguyện vọng học tập tiếp

lên trên. Trường đại học cung cấp cho sinh viên học vấn cao và cấp các bằng

cấp khoa học trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Các trường đại học có

thể cung cấp các chương trình bậc đại học và sau đại học.

Trường đại học là một cơ sở giáo dục được Nhà nước, các tổ chức xã

hội, cá nhân hoặc nhóm cá nhân thành lập với sứ mạng đào tạo, nghiên cứu

khoa học, truyền bá kiến thức, chuyển giao công nghệ và trên hết là phục vụ sự

phát triển của xã hội và cộng đồng.

Theo ý kiến thống nhất của nhiều học giả quốc tế, trường đại học là một

tổ chức phức tạp nhất trong tất cả các loại hình tổ chức trên thế giới bởi nó là

sự kết hợp của rất nhiều loại hình tổ chức khác nhau như các tổ chức chính trị

nhà nước, công ty, tập đoàn, bệnh viện, công sở…

Khác với công ty/ tập đoàn kinh doanh mà đối tượng phục vụ của nó

chủ yếu là khách hàng, trường đại học phục vụ rất nhiều nhóm đối tác liên đới

từ chính phủ, các tổ chức xã hội/nghề nghiệp, giới công nghiệp, cán bộ nhà

trường, cộng đồng, sinh viên, phụ huynh…Việc điều hành, quản trị, và quản lý

trường đại học vì thế cũng có những khác biệt cơ bản so với các tổ chức khác.

Như vậy, hiện có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đại học biến đổi theo

cả thời gian và không gian. Tuy nhiên có thể nhận thấy nhiều điểm chung trong

các định nghĩa đó để đi đến một khái niệm như sau: trường đại học là một thể

chế giáo dục, nghiên cứu khoa học, đào tạo chuyên gia và nhân lực chất lượng

cao, truyền bá và phổ biến tri thức, chuyển giao công nghệ, thực hiện dịch vụ

xã hội.

13

Hiện nay, nhiều học giả tương đối thống nhất về sứ mạng của đại học là:

Kiến tạo tri thức mới thông qua nghiên cứu khoa học; Lưu trữ, truyền bá, phổ

biến tri thức; Đào tạo chuyên gia, nhân lực trình độ cao có nền tảng văn hoá –

nhân văn tốt; Chuyển giao công nghệ, thực hiện dịch vụ xã hội.

Từ những quy định về giáo dục đại học (GDĐH) theo luật Giáo dục và

Luật Giáo dục đại học, có thể khái quát đặc điểm của GDĐH Việt Nam hiện

nay là:

Thứ nhất, GDĐH là giáo dục sau trung học phổ thông (xác định của

UNESCO).

Thứ hai, GDĐH đã mang tính đại chúng, không còn giới hạn ở giáo dục

tinh hoa như đại học truyền thống.

Thứ ba, GDĐH luôn gắn với giáo dục dạy nghề. Mỗi trường đại học đều

đào tạo những ngành nghề cụ thể nhất định. Danh mục ngành nghề đào tạo ấy

không cố định, khép kín, luôn thay đổi, mở theo yêu cầu của đời sống xã hội.

Thứ tư, GDĐH luôn song hành cùng nghiên cứu khoa học. Không nghiên

cứu khoa học nghiêm túc không phải và không còn là đại học.

Thứ năm, GDĐH mang đậm tính dân tộc, đồng thời cũng mang đậm tính

quốc tế. Nó là đỉnh cao của tri thức quốc gia; là cửa ngõ để văn hoá, khoa học

kỹ thuật quốc gia đến với thế giới và thế giới đến với quốc gia.

Nhiều tác giả nhấn mạnh tính dẫn dắt xã hội của đại học, vì đó là trung

tâm truy tìm chân lý và đại diện cho lương tri của loài người. Do vậy đại học

yêu cầu có một cơ chế tự trị/ tự chủ cao, một yêu cầu về tự do học thuật cao.

Đặc điểm của trường đại học trong xã hội, đó là:

Về sản phẩm của trường đại học

Trường đại học là chủ thể tham gia nền kinh tế xã hội nhưng không trực

tiếp tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra các sản phẩm vật chất mà đóng góp

vào quá trình này thông qua việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ.

Sản phẩm của trường đại học có đầy đủ tính chất kinh tế giống như các

loại sản phẩm dịch vụ hàng hóa khác vì quá trình sản xuất dịch vụ GDĐH đòi

hỏi phải tiêu hao các nguồn lực khan hiếm. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra sự

khác biệt giữa sản phẩm dịch vụ của trường đại học đối với các sản phẩm hàng

hóa.

Về quá trình hoạt động sản xuất sản phẩm dịch vụ của trường đại học

14

Quá trình hoạt động của trường đại học xét về bản chất là quá trình sản

xuất tiêu hao lao động sống và lao động vật hóa để tạo ra sản phẩm dịch vụ.

Trường đại học tạo ra sản phẩm dịch vụ trong quá trình tương tác giữa người

dạy và người học. Lực lượng sản xuất bao gồm người thầy, trang thiết bị, giáo

cụ, giáo trình,… trong đó người thầy có vai trò đặc biệt quan trọng. Người thầy

tác động trực tiếp đến người học bằng cách truyền đạt kiến thức, hướng dẫn kỹ

năng, rèn luyện ý thức,…. Quá trình này buộc người thầy phải tiêu hao sức lao

động của mình và sử dụng tiêu hao các công cụ khác phục vụ giảng dạy. Song

song với quá trình đó, người học được tiếp nhận các “dịch vụ” mà người thầy

đã cung cấp.

Quá trình cung ứng dịch vụ đồng thời với quá trình tiêu hao dịch vụ.

Điều này tạo nên đặc điểm của sản phẩm dịch vụ GDĐH là kết quả lao động

không tách rời bản thân người thực hiện.

Về sự phụ thuộc vào điều kiện sản xuất

Quá trình hoạt động của trường đại học diễn ra chịu sự tác của các yếu tố

về điều kiện sản xuất nhất định giống như bất kỳ quá trình sản xuất của một đơn

vị kinh tế nào khác. Tuy nhiên, nó có đặc điểm là không phụ thuộc nhiều vào các

điều kiện địa lý tự nhiên mà phụ thuộc nhiều vào các điều kiện xã hội ở môi

trường mà nó hoạt động.

Hoạt động GDĐH của trường đại học chịu ảnh hưởng bởi các quan

điểm, ý chí chủ quan của người quản lý. Các yếu tố này tác động qua việc dành

sự đầu tư cho hoạt động GDĐH hay không, giải quyết các vấn đề nảy sinh của

thị trường GDĐH ra sao. Ngoài ra, các yếu tố về trình độ phát triển kinh tế,

khoa học công nghệ, văn hóa xã hội là các yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt

động của trường đại học qua nhu cầu sử dụng sinh viên được đào tạo, sử dụng

các kết quả nghiên cứu của trường đại học, phát triển và bảo tồn các thành tựu

văn hóa.

Hoạt động cung cấp sản phẩm dịch vụ của trường đại học đó còn phụ

thuộc rất nhiều vào các yếu tố nội lực của bản thân trường đại học. Chất lượng,

năng lực của đội ngũ giảng viên, các điều kiện về CSVC, trang thiết bị, học

liệu,… là yếu tố quyết định đến chất lượng quá trình giảng dạy “cung ứng dịch

vụ” cũng như chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp cho xã hội.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!