Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ trong kiểm toán Báo cáo tài chính
MIỄN PHÍ
Số trang
114
Kích thước
669.6 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1944

Hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ trong kiểm toán Báo cáo tài chính

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

LỜI MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài

Trong các chỉ tiêu tài chính, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được coi

là một chỉ tiêu đặc biệt quan trọng, nó luôn ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo kết quả

kinh doanh, cũng như ảnh hưởng rất lớn đến các chỉ tiêu trong Bảng cân đối kế toán:

Lợi nhuận chưa phân phối, thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp…Đồng thời, nó

luôn là nền tảng để các chủ danh nghiệp cũng như người quan tâm xem xét, đánh giá

tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Kiểm toán khoản mục doanh thu BH&CCDV

là bước thiết yếu trong kiểm toán Báo cáo tài chính cho bất kỳ khách hàng nào. Công

ty kiểm toán Aticvietnam luôn chú trọng khoản mục doanh thu BH&CCDV hơn so

với các khoản mục khác. Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 14- Kế toán doanh thu là

một trong bốn chuẩn mực đầu tiên do Bộ tài chính ban hành. Nhận thức được tầm

quan trọng của công việc kiểm toán doanh thu BH&CCDV, trong thời gian thực tập

tại công ty kiểm toán Aticvietnam, dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Ths. Bùi

Thị Minh Hải và các anh chị KTV, em đã lựa chọn đề tài: “ Hoàn thiện kiểm toán

khoản mục doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ trong kiểm toán Báo cáo tài

chính do công ty kiểm toán Aticvietnam thực hiện” làm Khóa luận tốt nghiệp đại

học cho mình.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong Khóa luận của mình, em chỉ đi sâu nghiên cứu kiểm toán khoản mục

doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong doanh nghiệp sản xuất mà chưa đi sâu

vào nghiên cứu toàn bộ các khoản mục khác của doanh thu như: Doanh thu nội bộ,

doanh thu hoạt động tài chính hay của loại hình doanh nghiệp khác như công ty

thương mại, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ...

Phương pháp nghiên cứu

Bằng phương pháp luận của phép biện chứng duy vật kết hợp với các phương

pháp toán học, logic…cùng với các kỹ thuật kế toán, kiểm toán và những kiến thức

mà em đã học, tích lũy được đã giúp em hoàn thành Khóa luận này.

Nội dung của Đề tài

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 1

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Phụ lục, nội dung Khóa luận gồm các phần

sau:

Phần I: Lý luận chung về kiểm toán doanh thu bán hàng và cung cấp dịch

vụ trong kiểm toán tài chính

Phần II: Thực trạng kiểm toán doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài

chính được thực hiện tại công ty Aticvietnam.

Phần III: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán khoản mục

doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty Aticvietnam.

Những đóng góp của Đề tài

Trong Khóa luận của mình, em đã đi nghiên cứu thực trạng kiểm toán khoản

mục doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, em có đưa ra những nhận

xét và kiến nghị đối với công ty nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa chương trình kiểm

toán khoản mục doanh thu BH&CCDV.

Do còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm, cách diễn đạt ý nên Khóa luận này

không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của cô

giáo cùng những người quan tâm để Khóa luận của em ngày càng hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của cô giáo

Ths.Bùi Thị Minh Hải đã giúp em hoàn thành Khóa luận này.

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 2

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN DOANH THU BÁN

HÀNG & CUNG CẤP DỊCH VỤ TRONG KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH

1.1.Khái quát về kiểm toán tài chính

1.1.1.Khái niệm về kiểm toán tài chính

Kiểm toán là một hoạt động có từ rất lâu đời, tính từ thời mà các thông tin được

phê chuẩn bằng cách đọc lên trong một buổi họp công khai. Vì thế từ gốc của thuật

ngữ kiểm toán(Audit) theo tiếng La tinh là “Auditus” có nghĩa là “nghe”(1). Từ thời

Trung cổ, kiểm toán đã được thực hiện bởi các KTV nhà nước và KTV nội bộ để

thẩm tra về tính chính xác của các thông tin tài chính. Trong giai đoạn này, lĩnh vực

kiểm toán phát triển chủ yếu là kiểm toán tuân thủ. Sau này, với sự phát triển như vũ

bão của nền kinh tế toàn cầu, kiểm toán độc lập đã được ra đời và ngày càng chiếm

một tầm quan trọng lớn nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.

Thuật ngữ “kiểm toán” thực sự mới xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ hơn

một chục năm cuối thế kỷ XX. Chính vì thế, có rất nhiều quan điểm khác nhau về

kiểm toán. Nhìn chung có thể khái quát thành ba quan điểm chính sau:

Quan điểm 1: đó là đồng nhất giữa kiểm toán và kiểm tra kế toán. Tuy nhiên,

kiểm tra kế toán không phải là một hoạt động độc lập mà nó gắn liền với hoạt động

của kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán và nằm ngay trong hoạt động của kế

toán. Trong khi đó, kiểm toán luôn là một hoạt động độc lập với kế toán. Quan điểm

này mang tính truyền thống, đồng thời nó chỉ tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa tập

trung.

Quan điểm 2: kiểm toán được hiểu theo đúng thời cuộc của nó, đó là phát sinh

cùng thời với cơ chế thị trường. Theo quan điểm này, người ta thường dẫn ra quan

niệm của các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ hay của Vương quốc Anh: “Kiểm toán là

sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí

nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo

đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan”(2)

.

Quan điểm 3: là một quan điểm hiện đại về kiểm toán. Theo quan điểm này,

phạm vi kiểm toán rất rộng, bao gồm bốn lĩnh vực: kiểm toán thông tin(Information

audit), kiểm toán quy tắc( Regularity audit), kiểm toán hiệu quả( Efficiency audit),

(1) Theo Webster’s Seventh New Collegiate Dictionary, 1965

(2) Lời mở đầu”Giải thích về các chuẩn mực kiểm toán”

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 3

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

kiểm toán hiệu năng( Effectiveness audit)..

1.1.2. Bản chất của kiểm toán tài chính

Các quan điểm nói trên không hoàn toàn đối lập, mâu thuẫn và khác nhau mà là

phản ánh quá trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán. Cũng như nguyên

lý về sự phát triển trong triết học khẳng định: “Phát triển là một phạm trù triết học

dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ

kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật”(3)

.

Có thể đi đến kết luận rằng, bản chất của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến

về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của

kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ

nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.

1.1.3.Đối tượng và cách tiếp cận trong kiểm toán tài chính

* Đối tượng kiểm toán tài chính

Đối tượng kiểm toán là các hoạt động cần kiểm toán. Để xác minh tính trung

thực, hợp lý của các khoản mục trên Báo cáo tài chính thì kiểm toán viên nhất thiết

phải tiến hành đối chiếu các số dư tài khoản, thậm chí cả các chứng từ kế toán. Do đó

đối tượng kiểm toán trước hết là các tài liệu kế toán. Cuối thế kỷ XX, ngoài lĩnh vực

tài chính kế toán, kiểm toán còn quan tâm tới các lĩnh vực khác của quản lý như hiệu

quả của việc sử dụng các nguồn lực: vốn, lao động, tài nguyên cũng như hiệu năng

của các chương trình, dự án, nghiệp vụ, mục tiêu…

Như vậy, các yếu tố cấu thành cơ bản của đối tượng kiểm toán là:

• Thực trạng hoạt động tài chính – đối tượng chung của kiểm toán;

• Thực trạng Tài sản và Nghiệp vụ tài chính – đối tượng cụ thể của kiểm

toán;

• Tài liệu kế toán – đối tượng cụ thể của kiểm toán;

• Hiệu quả, hiệu năng – đối tượng cụ thể của kiểm toán.

Đối tượng kiểm toán rất rộng được thể hiện trên nhiều khách thể khác nhau. Do

đó muốn thực hiện tốt chức năng kiểm toán nhất thiết yêu cầu các KTV phải có nghệ

thuật trong việc tổ chức thực hiện kiểm toán.

* Cách tiếp cận kiểm toán tài chính

Trong kiểm toán tài chính, thường có hai cách cơ bản để tiếp cận kiểm toán tài

chính. Đó là phân theo khoản mục và phân theo chu trình.

(3) Giáo trình Triết học Mác-Lênin, NXB Chính trị Quốc gia năm 2006, Hà Nội, tr 187

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 4

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Phân theo khoản mục: là cách phân chia máy móc theo từng khoản mục hay

nhóm các khoản mục vào một phần hành. Cách phân chia này đơn giản, giảm thời

gian, chi phí nhưng hiệu quả không cao do tách những khoản mục ở vị trí khác nhau

nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Từ đó dẫn đến cái nhìn hạn chế của các KTV

về sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các chu trình. VD như hàng tồn kho với giá vốn

hàng bán, doanh thu với nghĩa vụ phải nộp ngân sách nhà nước(thuế)…

Phân theo chu trình: Là cách phân chia dựa theo mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau

giữa các khoản mục, các quá trình cấu thành các yếu tố trong một chu trình chung

của hoạt động tài chính. Cách phân chia này hiệu quả hơn do được xuất phát từ mối

quan hệ vốn có của các nghiệp vụ. Theo cách tiếp cận này, các phần hành cơ bản của

kiểm toán tài chính gồm:

• Kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền

• Kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán

• Kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên

• Kiểm toán tiền

• Kiểm toán hàng tồn kho

• Kiểm toán tiếp nhận và hoàn trả vốn.

1.1.4.Chức năng của kiểm toán

Từ bản chất của kiểm toán, người ta thấy được rằng: kiểm toán có chức năng nền

tảng là xác minh và bày tỏ ý kiến.

* Với chức năng xác minh: Chức năng này nhằm khẳng định tính trung thực của

các tài liệu( thông tin), tính pháp lý trong việc thực hiện các nghiệp vụ cũng như lập

các Báo cáo tài chính. Chức năng này được biểu hiện thành hai mặt:

• Xác minh độ tin cậy của các con số.

• Xác minh việc tuân thủ các quy định và tính hợp thức, hợp pháp của các

biểu mẫu kế toán(gọi là xác minh quy tắc).

* Với chức năng bày tỏ ý kiến: Chức năng này có thể được hiểu rộng với nghĩa cả

kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Nó được biểu

hiện dưới hình thức tư vấn mà sản phẩm của hình thức này là thư quản lý

(managerment letter).

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 5

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

1.1.5.Mục tiêu kiểm toán tài chính

Là một loại hình kiểm toán, kiểm toán tài chính cũng thực hiện chức năng xác

minh và bày tỏ ý kiến về đối tượng kiểm toán. Đối tượng kiểm toán thì luôn chứa

đựng những mối quan hệ về kinh tế và pháp lý phong phú, đa dạng. Do đó nên chức

năng xác minh và bày tỏ ý kiến cấn được xác minh thật khoa học. Mặt khác, ý kiến

hay kết luận kiểm toán không chỉ phục vụ cho người lập hay người xác minh mà còn

phục vụ cho người quan tâm đến tính trung thực, hợp pháp của BCTC. Chính vì vậy,

kết luận này phải dựa trên bằng chứng đầy đủ, có hiệu lực voiứ chi phí kiểm toán

thấp nhất. Để thực hiện cuộc kiểm toán đúng hướng và có hiệu quả cao, việc xác định

hệ thống mục tiêu kiểm toán khoa học trên cơ sở các mối quan hệ sẵn có của đối

tượng và của khách thể kiểm toán là thực sự cần thiết. Tầm quan trọng của nó đã

được thể hiện rất cụ thể trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200(Mục tiêu và

nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán BCTC). Chuẩn mực xác định: “Mục tiêu của

kiểm toán BCTC là giúp cho KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng

BCTC có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được

chấp nhận, có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên

các khía cạnh trọng yếu hay không.

Mục tiêu kiểm toán tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những

tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn

vị”.

Đối với KTV hay các công ty kiểm toán, việc xác minh không chỉ dừng ở các

mục tiêu chung mà phải cụ thể vào từng phần hành kiểm toán( hay chính là mục tiêu

đặc thù). Do đó, hệ thống mục tiêu kiểm toán bao gồm cả những mục tiêu đặc thù.

Mục tiêu kiểm toán chung được chia thành hai loại là: mục tiêu hợp lý chung và mục

tiêu chung khác. Còn mục tiêu kiểm toán đặc thù được xác định trên cơ sở mục tiêu

chung và đặc điểm của khoản mục hay phần hành, cùng với hệ thống kế toán, hệ

thống kiểm soát nội bộ theo dõi chúng. Nhìn chung, hệ thống mục tiêu kiểm toán đặc

thù thường được đặt ra là:

• Mục tiêu hiệu lực

• Mục tiêu trọn vẹn

• Mục tiêu quyền và nghĩa vụ

• Mục tiêu định giá

• Mục tiêu phân loại và trình bày

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 6

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

• Mục tiêu chính xác cơ học

1.1.6. Phương pháp kiểm toán trong kiểm toán tài chính

1.1.6.1. Đặc điểm của kiểm toán tài chính với phương pháp kiểm toán

Như chúng ta đã biết, mỗi loại kiểm toán khác nhau sẽ có những chức năng, đối

tượng cụ thể khác nhau và quan hệ chủ thể, khách thể kiểm toán khác nhau. Chính vì

thế, cách thức kết hợp các phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài

chứng từ trong kiểm toán tài chính cũng có những điểm đặc thù.

Trước hết, xét về chức năng của kiểm toán, kiểm toán tài chính hướng tới việc

bày tỏ ý kiến trên cơ sở các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và phù hợp. Để đạt được

các bằng chứng này, kiểm toán tài chính cần thực hiện các phương pháp cơ bản theo

từng trường hợp cụ thể. Thông thường, nó thường được triển khai theo hướng kết

hợp hoặc chi tiết thành các cách kiểm toán cụ thể, điều đó tùy vào tính huống cụ thể

trong suốt quá trình kiểm toán.

Đối tượng của kiểm toán tài chính là các báo cáo kế toán và các bảng tổng hợp tài

chính khác. Các bảng này vừa chứa đựng những mối quan hệ kinh tế tổng quát, vừa

phản ánh cụ thể từng loại tài sản, nguồn vốn…Do đó, kiểm toán tài chính thường là

kiểm toán liên kết và hình thành những thủ tục với việc sử dụng liên hoàn các

phương pháp kiểm toán cơ bản để đưa ra ý kiến đúng đắn, trung thực về các báo cáo

và bảng này.

Tác động đến kỹ thuật kiểm toán tài chính còn có mối liên hệ giữa nội kiểm và

ngoại kiểm trên quan điểm hiệu quả. Để đảm bảo tính hiệu quả trong kiểm toán tài

chính thì trình tự phổ biến được thực hiện là tiến hành kiểm toán theo trình tự ngược

với trình tự kế toán.

1.1.6.2.Các trắc nghiệm trong kiểm toán tài chính

Trước hết, chúng ta cần hiểu trắc nghiệm là gì?. Trong kiểm toán tài chính, người

ta thường hiểu trắc nghiệm: “Trắc nghiệm được hiểu là các cách thức xác định trong

việc vận dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ vào xác minh

các nghiệp vụ, các số dư tài khoản hoặc các khoản mục cấu thành bảng khai tài

chính”(4)

.

Từ các cách thức vận dụng đó hình thành nên các loại trắc nghiệm khác nhau, mà

cụ thể là hình thành ba loại trắc nghiệm cơ bản: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm

trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích.

(4) GS.TS Nguyễn Quang Quynh-TS Ngô Trí Tuệ, Giáo trình Kiểm toán tài chính, NXB Đại học Kinh tế

Quốc dân, Hà Nội 2006, tr 19

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 7

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

1.2.Đặc điểm khoản mục doanh thu bán hàng& cung cấp dịch vụ ảnh hưởng

đến vấn đề kiểm toán Báo cáo tài chính

1.2.1.Những vấn đề chung về doanh thu bán hàng&cung cấp dịch vụ

1.2.1.1.Khái niệm và phân loại doanh thu

1.2.1.1.1. Khái niệm doanh thu

Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp của ba yếu tố: lao động, tư liệu

lao động và đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm cần thiết phục vụ nhu cầu

của con người. Sản phẩm đó để bán tiêu dùng hoặc là đầu vào của quá trình sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp khác. Qua tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp sẽ ghi nhận

doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ. Như vậy, khâu tiêu thụ là khâu cuối cùng của

quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những chỉ tiêu thể hiện rõ nét khả

năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Kết quả của khâu này được

thể hiện trên Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể ở chỉ tiêu doanh

thu bán hàng, cung cấp dịch vụ và doanh thu thuần.

Trong cuốn Lý thuyết kinh tế học của David Begg, ông đã đưa ra một cách nhìn

cụ thể về vai trò của doanh thu đối với các quyết định kinh tế của doanh nghiệp cũng

như những người quan tâm. Ông đã đưa ra một khái niệm rất đơn giản, ngắn gọn mà

súc tích về doanh thu. Đó là: “Doanh thu của một hãng là số tiền mà nó kiếm được

qua việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ trong một giai đoạn nhất định ví như

trong một năm”(5)

.

Trong cuốn Tư bản của Mác, Người cho rằng sản phẩm không chỉ là hàng hóa,

mà là hàng hóa mang trong mình một giá trị thặng dư. Giá trị của nó bao gồm tư liệu

sản xuất và sức lao động hao phí cộng với giá trị thặng dư do tư bản sản xuất đẻ ra,

hay chính là C+V+M. Khi nhà tư bản tiêu thụ hàng hóa thì nhà tư bản thu được

doanh thu. Như vậy, “Doanh thu là kết quả của quá trình tiêu thụ, đó là quá trình thực

hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Qua tiêu thụ, sản phẩm chuyển từ hình

thái hiện vật sang hình thái giá trị”(6)

.

Theo Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 14 - Doanh thu và thu nhập khác thì:

“Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán,

phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp

phần làm tăng vốn chủ sở hữu”.

Thuật ngữ Doanh thu được sử dụng chỉ bao gồm tổng giá trị các lợi ích kinh tế

(5) Lý thuyết kinh tế học của David Begg, NXB Giáo dục, 1998

(6) Tư bản của Mác- NXB Giáo dục 1995

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 8

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được. Các khoản thu hộ không phải là nguồn

lợi ích kinh tế, không làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ không được coi

là doanh thu (Ví dụ: Đại lý thu hộ tiền bán hàng cho đơn vị gửu đại lý, thì doanh thu

của người nhận đại lý chỉ là tiền hoa hồng đại lý được hưởng và hạch toán vào tài

khoản 511 của bên đại lý). Các khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu làm tăng

vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng không là doanh thu.

Khái niệm trên đã cho ta thấy rõ quan niệm về doanh thu theo cả lý luận và thực

tiễn hoạt động kế toán, kiểm toán. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được xác

định bằng giá trị hợp lý của các khoản đã thu hoặc sẽ thu được sau khi trừ các khoản

chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại.

1.2.1.1.2. Phân loại doanh thu

Để hiểu rõ hơn nữa về doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ thì cần có sự phân

loại một cách cụ thể. Phân loại doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ giúp cho việc

xác định doanh thu của từng loại được nhìn nhận và tính toán một cách chính xác.

Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14, Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ

của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận sau:

* Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ(Kế toán sử dụng TK 511-Doanh thu

bán hàng và cung cấp dịch vụ): Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được phản

ánh từ các giao dịch và các nghiệp vụ sau:

Bán hàng: Bán các sản phẩm, thành phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra và bán

hàng hóa mua vào

Cung cấp dịch vụ: Thực hiện công việc đã thỏa thuận theo hợp đồng trong một

hoặc nhiều kỳ kế toán như cung cấp dịch vụ vận chuyển, đi lại, dịch vụ vệ sinh công

nghiệp, dịch vụ chăm sóc cỏ…

Doanh thu BH&CCDV là toàn bộ lợi ích thu được hoặc sẽ thu được từ các giao

dịch hay nghiệp vụ phát sinh doanh thu như bán sản phẩm, thành phẩm, hàng hóa,

cung cấp dịch vụ cho khách hàng gồm cả những khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài

giá bán(nếu có).

• Nếu doanh nghiệp áp dụng việc tính thuế GTGT phải nộp theo phương pháp

khấu trừ thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là doanh thu chưa có thuế, đồng

thời doanh nghiệp sử dụng “Hóa đơn GTGT”.

• Nếu doanh nghiệp áp dụng việc tính thuế GTGT phải nộp theo phương pháp

trực tiếp thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là doanh thu có tính thuế, đồng

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 9

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

thời doanh nghiệp sử dụng “Hóa đơn bán hàng”.

• Đối với sản phẩm, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, hoặc

thuế xuất nhập khẩu thì doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng giá thanh

toán.

Doanh thu BH&CCDV mà doanh nghiệp thực hiện trong kỳ kế toán có thể thấp

hơn doanh thu BH&CCDV ghi nhận ban đầu do các nguyên nhân như: Chiết khấu

thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại hoặc nộp thuế tiêu thụ đặc biệt,

thuế xuất khẩu, thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp được tính trên doanh thu

BH&CCDV thực tế thực hiện.

Nếu doanh nghiệp có doanh thu BH&CCDV bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại

tệ ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên

ngân hàng tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ hoặc tỷ giá thực tế tại thời điểm phát

sinh nghiệp vụ.

* Doanh thu tiêu thụ nội bộ(512): Tài khoản này phản ánh doanh thu của sản phẩm,

hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trong một kỳ kế toán của số lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ

tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty, tổng công ty…

* Các khoản giảm trừ doanh thu

Chiết khấu thương mại: là số tiền mà doanh nghiệp giảm giá niêm yết cho khách

hàng mua với khối lượng lớn.

Giảm giá hàng bán: là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hóa đơn hay hợp

đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không

đúng quy cách, giao hàng không đúng thời gian, địa điểm trong hợp đồng…

Hàng bán bị trả lại: là số hàng đã được tính là tiêu thụ nhưng bị người mua trả

lại, từ chối do làm không đúng quy cách, phẩm chất…như đã quy định điều khoản ở

trong hợp đồng hay như đã thỏa thuận.

Ngoài ra còn có những khoản được ghi nhận là các khoản giảm trừ doanh thu như:

thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.

1.2.1.2.Nguyên tắc ghi nhận doanh thu

Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là chỉ tiêu đặc biệt quan trọng bởi lẽ: nó

ảnh hưởng rất lớn tới các chỉ tiêu khác trên bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả

kinh doanh như: thuế, lợi nhuận chưa phân phối, phải thu khách hàng, lãi từ hoạt

động sản xuất kinh doanh…, cũng như ảnh hưởng rất lớn đến những người quan tâm

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 10

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do tầm quan trọng của chỉ tiêu này nên việc

việc ghi nhận doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ cần phải tuân theo một số quy

định sau:

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14-Doanh thu và Thu nhập khác thì :

* Doanh thu bán hàng chỉ ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn năm điều kiện như sau:

• Doanh nghiệp chuyển giao phần lớn rủi ro, lợi ích gắn liền với quyền sở

hữu sản phẩm cho người mua.

• Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý, quyền kiểm soát sản

phẩm hàng hóa.

• Doanh thu xác định tương đối chắc chắn.

• Doanh nghiệp đã thu được hay sẽ thu được lợi ích kinh tế từ bán hàng.

• Xác định được chi phí liên quan đến bán hàng.

* Doanh thu về cung cấp dịch vụ được ghi nhận khi kết quả của giao dịch đó

được xác định một cách đáng tin cậy.

Trường hợp cung cấp dịch vụ liên quan đến nhiều kỳ kế toán thì doanh thu được

ghi nhận trong kỳ theo phần công việc đã hoàn thành tại ngày lập Bảng cân đối kế

toán của kỳ kế toán đó. Doanh thu cung cấp dịch vụ được xác định khi thỏa mãn bốn

điều kiện sau:

• Doanh thu xác định tương đối chắc chắn.

• Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ cung cấp dịch vụ đó.

• Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng Cân đối

kế toán.

• Xác định được chi phí phát sinh và chi phí để hoàn thành việc cung cấp

dịch vụ đó.

Chu trình ghi nhận doanh thu có thể được tóm tắt như sau:

Doanh nghiệp bắt đầu xử lý đơn đặt hàng, phiếu yêu cầu mua hàng của người

mua, sau đó là ký hợp đồng về mua bán hàng hóa dịch vụ…Trên cơ sở pháp lý này,

người bán có thể xem xét đưa ra quyết định bán qua phiếu tiêu thụ và lập hóa đơn

bán hàng. Ngay sau khi quyết định bán, cần xem xét và quyết định bán chịu một phần

hoặc toàn bộ hàng hóa. Sau chức năng duyệt bán là chức năng chuyển giao hàng. Vào

lúc giao hàng, các chứng từ vận chuyển cũng được lập(hóa đơn vận chuyển hay vận

đơn). Đây cũng là thời điểm chấp nhận được ghi sổ bán hàng, một số trường hợp thì

hóa đơn bán hàng được lập đồng thời với vận đơn hoặc kiêm chức năng chứng từ vận

Đỗ Như Hoa - Kiểm toán 45A 11

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!