Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Dấu hiệu định tội của tội nhận hối lộ theo luật Hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ MỘNG THI
DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI CỦA TỘI NHẬN HỐI LỘ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI CỦA TỘI NHẬN HỐI LỘ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã Số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa
Học viên: Lê Thị Mộng Thi
Lớp: CHL Sóc Trăng – Khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa.
Các kết quả nghiên cứu được là trung thực, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về
kết quả nghiên cứu. Luận văn này chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
TÁC GIẢ
Lê Thị Mộng Thi
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CHỦ THỂ CỦA TỘI NHẬN HỐI LỘ.............................................8
1.1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về chủ thể của Tội nhận
hối lộ .......................................................................................................................8
1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xác định chủ thể của Tội nhận
hối lộ .....................................................................................................................15
1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật xác
định chủ thể của Tội nhận hối lộ và kiến nghị..................................................25
1.3.1. Nguyên nhân............................................................................................25
1.3.2. Kiến nghị .................................................................................................26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1........................................................................................28
CHƢƠNG 2. HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI NHẬN HỐI LỘ...............29
2.1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về hành vi khách quan
của Tội nhận hối lộ..............................................................................................29
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xác định hành vi khách quan của
Tội nhận hối lộ.....................................................................................................33
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật xác
định hành vi khách quan của tội nhận hối lộ và kiến nghị .............................38
2.3.1. Nguyên nhân............................................................................................38
2.3.2. Kiến nghị .................................................................................................40
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2........................................................................................42
KẾT LUẬN..............................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác đấu tranh
phòng, chống các tội phạm tham nhũng và kiên quyết xử lý đối với các tội phạm
này. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định một trong những nhiệm vụ cải
cách tư pháp là hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục
tố tụng tư pháp thể hiện: “Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với
những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức
vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người
khác. Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, cơ quan, các tổ chức quần
chúng trong phát hiện, phòng ngừa tham nhũng; bảo vệ người trung thực phát hiện,
tố cáo, người điều tra truy tố, xét xử hành vi tham nhũng; khen thưởng người có
công trong đấu tranh phòng chống tham nhũng. Đề cao trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc ngăn ngừa, kiểm soát các hành vi tham
nhũng”. Trong số các tội phạm về tham nhũng, chức vụ đang gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức thì tội phạm nhận
hối lộ đang diễn biến phức tạp. Điều này ảnh hưởng đến lòng tin của người dân đối
với Đảng, Nhà nước và ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Tuy nhiên, các tội
phạm về tham nhũng, nhận hối lộ vẫn chưa được đẩy lùi và trở thành nỗi bức xúc
của toàn xã hội. Do đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ này là “đẩy mạnh
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”. Bộ luật Hình sự là công
cụ hữu hiệu nhất để đấu tranh chống các tội phạm nói chung và tội phạm tham
nhũng, nhận hối lộ nói riêng. Tại Điều 1 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 xác định: “ Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia,
an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.
Do đó, việc xác định dấu hiệu định tội của Tội nhận hối lộ có ý nghĩa quan
trọng khi giải quyết vụ án đối với loại tội phạm này, đảm bảo việc xét xử đúng người,
2
đúng tội, đúng quy định, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Tuy nhiên,
một số quy định pháp luật hình sự hiện hành về Tội nhận hối lộ chưa đầy đủ, thiếu rõ
ràng làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn trong quá trình giải
quyết vụ án. Thực tiễn cho thấy trong quá trình giải quyết vụ án khi định tội đối với
Tội nhận hối lộ thì cơ quan tiến hành tố tụng gặp phải những khó khăn như: vấn đề
xác định người có chức vụ, quyền hạn với tư cách là chủ thể của Tội nhận hối lộ, xác
định hành vi khách quan của Tội nhận hối lộ. Những vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến
hiệu quả công tác xét xử nói riêng và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung. Do đó, việc nghiên cứu những quy định pháp luật về dấu hiệu định tội của Tội
nhận hối lộ trong luật hình sự Việt Nam sẽ giúp hiểu rõ hơn những quy định của pháp
luật hiện hành về vấn đề này. Bên cạnh đó, dựa trên cơ sở khảo sát thực tiễn giải
quyết các vụ án để làm rõ những vấn đề bất cập của quy định pháp luật đối với các
dấu hiệu định tội của Tội nhận hối lộ, từ đó hình thành những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật; góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm.
Với những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Dấu hiệu định tội của Tội
nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn xét xử các
vụ án về Tội nhận hối lộ nhưng vấn đề xác định dấu hiệu định tội của Tội nhận hối
lộ chưa được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Qua khảo sát có thể kể đến một số
công trình nghiên cứu sau đây:
Báo, tạp chí:
- Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Huyền Ly (2016), “Các yếu tố cấu thành tội
phạm của các tội hối lộ trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
năm 2003 và sự ghi nhận trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015”, Nhà nước và
Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, số 6 (338), tr.40-45.
Trong bài viết này, các tác giả Nguyễn Thị Bình và Nguyễn Huyền Ly đã mô
tả các yếu tố cấu thành tội phạm của tội phạm hối lộ quy định trong Công ước về
chống tham nhũng của Liên Hợp quốc năm 2003. Trên cơ sở đó, các tác giả Bình và
Ly phân tích, đánh giá chỉ ra các nội dung tương thích, nội dung không tương thích
về các yếu tố cấu thành tội phạm của các tội phạm hối lộ trong Bộ luật Hình sự Việt
3
Nam năm 2015 với Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng. Nhưng các
tác giả không đưa ra kiến nghị cụ thể đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật Việt
Nam. Vấn đề này sẽ được tác giả làm rõ trong luận văn.
- Trần Văn Đạt (2005), “Tội đưa hối lộ và tội nhận hối lộ với hành vi đưa và
nhận quà để “tạ ơn”’”, Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 12 (165), tr.44-46.
Trong bài viết này, tác giả Trần Văn Đạt phân tích hai quan điểm khác nhau
về hành vi đưa và nhận quà tạ ơn có cấu thành Tội đưa hối lộ và Tội nhận hối lộ hay
không cấu thành các tội này. Trên cơ sở phân tích làm sáng tỏ khái niệm quà tạ ơn,
phân biệt hành vi đưa và nhận quà tạ ơn khác với hành vi đưa và nhận hối lộ về dấu
hiệu khách thể và dấu hiệu khách quan, tác giả Đạt đã nêu được quan điểm cá nhân
của mình cho rằng hành vi đưa và nhận quà tạ ơn không cấu thành Tội nhận hối lộ
và đưa hối lộ.
- Đỗ Đức Hồng Hà (2017), “Bình luận Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội nhận hối lộ”, Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, số 23, tr.34-45.
Trong bài viết nêu trên, tác giả Đỗ Đức Hồng Hà phân tích những điểm mới
của Tội nhận hối lộ trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
gồm những quy định có lợi cho người phạm tội, những quy định không có lợi cho
người phạm tội, cụ thể hóa những quy định mang tính định tính trong Bộ luật Hình
sự năm 1999. Đồng thời, tác giả Hồng Hà bình luận các dấu hiệu pháp lý và đường
lối xử lý của Tội nhận hối lộ theo Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017. Những vấn đề này tác giả có thể tham khảo, học hỏi khi viết luận
văn, cụ thể ở phần phân tích quy định pháp luật về Tội nhận hối lộ.
- Triệu Là Pham (2015), “Hoàn thiện pháp luật về tội nhận hối lộ trong Bộ luật
Hình sự”, Nghiên cứu Lập pháp, Viện nghiên cứu Lập pháp, số 19 (299), tr.42-52.
Trong bài viết này, tác giả Triệu Là Pham phân tích một số dấu hiệu của Tội
nhận hối lộ theo quy định tại Điều 279 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009, Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/03/2001 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao; thực tiễn xét xử Điều 279 Bộ luật Hình sự năm 1999,
sửa đổi bổ sung năm 2009 từ năm 2009-2013; những bất cập trong việc ngăn chặn,
phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng, hối lộ. Từ đó, đề xuất các kiến nghị sửa đổi
quy định pháp luật về Tội nhận hối lộ.
4
- Nguyễn Thanh Tân (2013), “Tội nhận hối lộ - so sánh giữa Bộ luật Hình sự
Việt Nam với luật hình sự nước ngoài và pháp luật quốc tế”, Luật học, Đại học luật
Hà Nội, số 04 (155), tr.51-58.
Trong bài viết này, tác giả Nguyễn Thanh Tân tập trung phân tích, so sánh
Tội nhận hối lộ theo Luật hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
với Luật hình sự một số quốc gia khác như Cộng hòa Liên bang Đức, Italia, Liên
bang Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, Thụy Điển, Trung Quốc…,và theo Công
ước về phòng chống tham nhũng của Liên hợp quốc qua một số nội dung gồm chủ
thể của tội nhận hối lộ, hành vi khách quan của Tội nhận hối lộ và nội dung hối lộ.
Trên cơ sở này, tác giả Thanh Tân đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của
luật hình sự Việt Nam về Tội nhận hối lộ.
Luận án, luận văn:
- Đào Lệ Thu (2011), Các tội phạm về hối lộ theo Luật hình sự Việt Nam
trong sự so sánh với Luật hình sự Thụy Điển và Australia, Luận án tiến sĩ luật học,
Trường Đại học luật Hà Nội.
Luận án này, tác giả Đào Lệ Thu phân tích những vấn đề lý luận về các tội
phạm về hối lộ, những luận điểm về các tội phạm về hối lộ và các nhìn nhận từ quan
điểm lập pháp hình sự quốc tế đối với các tội phạm về hối lộ; phân tích các dấu hiệu
pháp lý về các tội phạm về hối lộ theo Bộ luật hình sự Việt Nam và theo Luật hình
sự Thụy Điển, Australia từ đó đưa ra sự đánh giá so sánh tổng quan về quy định
pháp luật hình sự của các nước này; những vấn đề thực tiễn về các tội phạm về hối
lộ ở Việt Nam trong sự so sánh với Thụy Điển và Australia. Từ đó đưa ra những
kiến nghị đối với các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về các tội phạm về
hối lộ và việc áp dụng các quy định này.
- Đặng Hữu Anh (2016), Tội nhận hối lộ theo Luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ, Khoa luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trong đề tài này, tác giả Đặng Hữu Anh đã nêu được những vấn đề lý luận
chung về Tội nhận hối lộ; phân tích các dấu hiệu pháp lý cấu thành Tội nhận hối lộ
và các trường hợp phạm tội cụ thể của Điều 279 Bộ luật hình sự; so sánh Tội nhận
hối lộ với một số tội phạm tham nhũng khác trong Bộ luật hình sự như Tội tham ô
tài sản, Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, Tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; những bất cập và các giải
5
pháp trong công tác phát hiện, xử lý Tội nhận hối lộ. Đề tài của tác giả Hữu Anh chỉ
tập trung nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý cấu thành Tội nhận hối lộ của Bộ luật
Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, chưa có sự phân tích, so sánh với
Bộ luật Hình sự năm 2015. Vấn đề này sẽ được tác giả làm rõ trong luận văn.
- Triệu Là Pham (2016), Tội nhận hối lộ trong Luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ, Khoa luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trong đề tài này, tác giả Triệu Là Pham nghiên cứu lịch sử quy định về Tội
nhận hối lộ trong luật hình sự Việt Nam; những nội dung cơ bản của Công ước quốc
tế về chống tham nhũng cũng như ở một số nước liên quan đến Tội nhận hối lộ;
phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội nhận hối lộ trong Bộ luật Hình sự
năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và hình phạt; thực tiễn áp dụng các quy định
về Tội nhận hối lộ của Bộ luật Hình sự từ năm 2010 đến năm 2015 của Tòa án nhân
dân qua đó rút ra những tồn tại, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của nó; từ đó đề
xuất các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng các quy định về Tội nhận hối lộ
trong Bộ luật Hình sự.
- Nguyễn Ngọc Điền (2019), Tội nhận hối lộ theo Luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung luận văn này, tác giả Nguyễn Ngọc Điền đã phân tích: Thứ nhất, quy
định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về các dấu hiệu đặc trưng của chủ thể của
Tội nhận hối lộ; thực tiễn xác định dấu hiệu “người có chức vụ, quyền hạn” trong Tội
nhận hối lộ qua 04 vụ án cụ thể; từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi Bộ luật Hình sự tách
hành vi nhận hối lộ trong lĩnh vực công và nhận hối lộ trong lĩnh vực tư thành 2 tội
danh khác nhau, ban hành văn bản hướng dẫn người có chức vụ do một hình thức
khác, ban hành văn bản xác định rõ giới hạn người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh
vực tư. Thứ hai, quy định của luật hình sự Việt Nam về hành vi khách quan của Tội
nhận hối lộ; thực tiễn xác định hành vi nhận hối lộ qua 05 vụ án cụ thể; kiến nghị
hướng dẫn xác định hành vi nhận hối lộ, thời điểm cấu thành tội phạm, tội phạm hoàn
thành, bổ sung quy định hành vi nhận hối lộ tạ ơn vào pháp luật hình sự Việt Nam.
- Phan Thị Thủy (2017), Các tội phạm về hối lộ trong Bộ luật Hình sự năm
2015, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Trong đề tài này, tác giả Phan Thị Thủy đã nêu ra những vấn đề lý luận về
các tội phạm hối lộ như khái niệm, đặc điểm và các dấu hiệu đặc trưng pháp lý của
6
các tội phạm về hối lộ, qua đó, xác định phạm vi các tội phạm hối lộ; so sánh các tội
phạm về hối lộ với một số tội phạm tham nhũng khác và với các hành vi hối lộ
trong Luật phòng, chống tham nhũng; quy định của pháp luật quốc tế và kinh
nghiệm của một số quốc gia về các tội phạm hối lộ; phân tích các quy định của Bộ
luật Hình sự năm 2015 về các tội phạm hối lộ và thực tiễn áp dụng các tội phạm
này. Từ đó, đưa ra năm kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm
2015 về các tội phạm hối lộ.
- Mai Anh Tú (2018), Tội nhận hối lộ trong luật Hình sự Việt Nam, Khóa
luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định pháp luật của
Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội nhận hối lộ,
chỉ ra những điểm mới, tiến bộ của Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự
năm 1999; thực trạng và thực tiễn xét xử Tội nhận hối lộ, từ đó đưa ra những kiến
nghị hoàn thiện quy định về Tội nhận hối lộ trong Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng những công trình nêu trên đã chỉ ra những
bất cập, thiếu sót trong quy định pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng liên quan
đến Tội nhận hối lộ ở những góc độ nhất định. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên
cứu nào chỉ ra một số vấn đề còn vướng mắc liên quan đến Tội nhận hối lộ như:
- Sự vênh giữa Bộ luật Hình sự và Luật phòng, chống tham nhũng và cách sử
dụng phương pháp của Bộ luật Hình sự về “người có chức vụ” như chủ thể của Tội
nhận hối lộ.
- Làm rõ phạm vi những người được coi là người có chức vụ đối với những
người thực hiện những công việc chuyên môn, kĩ thuật được coi là chủ thể của tội
phạm nhận hối lộ.
- Hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự về hành vi khách quan của Tội
nhận hối lộ khi quy định hành vi ở dạng suy đoán “sẽ nhận”.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Từ những phân tích trên, mục đích nghiên cứu của đề tài trước hết là đánh giá
những quy định của pháp luật hiện hành về dấu hiệu định tội của Tội nhận hối lộ,
chủ yếu là hai dấu hiệu về chủ thể và hành vi khách quan. Bên cạnh đó, dựa trên cơ
sở khảo sát thực tiễn giải quyết các vụ án về vấn đề này để làm rõ những vấn đề bất
7
cập của quy định pháp luật trong việc xác định dấu hiệu định tội của Tội nhận hối
lộ, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nhiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp luật hình sự Việt Nam
về Tội nhận hối lộ. Đồng thời, đối chiếu với thực tiễn xét xử về tội này tại Tòa án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về
Tội nhận hối lộ thông qua việc xét xử các vụ án trên phạm vi cả nước.
- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu các vụ án có liên quan đến Tội
nhận hối lộ được xét xử từ năm 2011 đến nay.
4.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu có hiệu quả đề tài, tác giả sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp và bình luận án xuyên suốt quá trình nghiên cứu. Qua đó phân tích quy
định của pháp luật hình sự hiện hành về các vấn đề liên quan đến dấu hiệu định tội
của Tội nhận hối lộ.
5. Bố cục của đề cƣơng chi tiết
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn “Dấu hiệu định tội của Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam”
gồm 2 chương:
Chƣơng 1: Chủ thể của Tội nhận hối lộ;
Chƣơng 2: Hành vi khách quan của Tội nhận hối lộ.
8
CHƢƠNG 1
CHỦ THỂ CỦA TỘI NHẬN HỐI LỘ
1.1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về chủ thể của Tội
nhận hối lộ
Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, với vai trò là
người thực hiện hành vi được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm. Vì
vậy, nếu không có chủ thể của tội phạm thì sẽ không có hành vi khách quan của tội
phạm, không có trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi ấy và cũng sẽ không có
quan hệ xã hội bị xâm hại. Hay nói cách khác, không có chủ thể của tội phạm thì
không có mặt khách quan, mặt chủ quan của tội phạm và không có khách thể của tội
phạm1
. Điều này có nghĩa là không có yếu tố chủ thể của tội phạm thì không có tội
phạm. Vì vậy, việc xác định đúng vấn đề chủ thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng
trong việc định tội danh. Đối với Tội nhận hối lộ, xác định đúng các dấu hiệu thuộc
về chủ thể sẽ giúp chúng ta xác định hành vi thực hiện có cấu thành tội phạm hay
không, xác định đúng tội danh, phân biệt các tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Tội
nhận hối lộ được quy định tại Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 215 sửa đổi, bổ sung
năm 2017 (sau đây viết tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015): “Người nào lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau
đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc
không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ,…”.
Chủ thể của Tội nhận hối lộ là chủ thể đặc biệt, bởi vì ngoài hai đặc điểm về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực chịu trách nhiệm hình sự được quy định
tại Điều 12, Điều 21 Bộ luật Hình sự thì phải thỏa mãn thêm đặc điểm liên quan đến
chức vụ, quyền hạn. Tức phải là người có chức vụ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 352 Bộ luật Hình sự năm 2015, “người có
chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác,
có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất
định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”.
Theo khoản 2 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định:
“Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp
1 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Trần Thị
Quang Vinh, NXB Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam, tr.134-135.
9
đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được
giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực
hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm: a) Cán bộ, công chức, viên chức; b) Sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; c)
Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; d) Người giữ chức danh, chức vụ
quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức; đ) Những người khác được giao thực hiện nhiệm
vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”.
Như vậy, thứ nhất về thuật ngữ có độ vênh giữa Bộ luật Hình sự và Luật
phòng, chống tham nhũng. Cụ thể, Bộ luật Hình sự sử dụng thuật ngữ quy định chỉ
về chủ thể là “người có chức vụ”, còn Luật phòng, chống tham nhũng sử dụng cụm
từ chỉ chủ thể là “người có chức vụ, quyền hạn”. Thứ hai, phạm vi người có chức vụ
theo pháp luật hình sự có thể bao gồm những đối tượng nêu tại khoản 2 Điều 3 Luật
phòng, chống tham nhũng, gồm 05 nhóm đối tượng sau:
Một, Cán bộ, công chức, viên chức
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước2
.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật3
.
2 Khoản 1 Điều 4 Luật cán bộ, công chức
3 Khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ, công chức