Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
116
Kích thước
32.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1096

Dấu hiệu định tội của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo Luật hình sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HOÀNG NGỌC LINH

DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI CỦA TỘI LẠM DỤNG

CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI CỦA TỘI LẠM DỤNG

CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự

Định hướng ứng dụng

Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Thị Ánh Hồng

Học viên : Hoàng Ngọc Linh

Lớp : Cao học luật, An Giang khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ

Luật học “Dấu hiệu định tội của Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài

sản theo Luật Hình sự Việt Nam” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với

các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn

đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi

dưới sự hướng dẫn khoa học của Ts. Nguyễn Thị Ánh Hồng.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Hoàng Ngọc Linh

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX : Hội đồng xét xử

KSV : Kiểm sát viên

PTPT : Phiên tòa phúc thẩm

PTST : Phiên tòa sơ thẩm

TTHS : Tố tụng hình sự

VKS : Viện kiểm sát

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1

CHƯƠNG 1. HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ,

QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN................................................................6

1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về hành vi khách quan của tội lạm dụng

chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản...............................................................6

1.2. Thực tiễn xác định hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền

hạn chiếm đoạt tài sản........................................................................................11

1.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xác định hành vi

khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ..........22

Kết luận chương 1 ...................................................................................................27

CHƯƠNG 2. CHỦ THỂ CỦA TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN

CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .......................................................................................28

2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự về chủ thể của tội lạm dụng chức vụ,

quyền hạn chiếm đoạt tài sản ............................................................................28

2.2. Thực tiễn xác định chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm

đoạt tài sản...........................................................................................................31

2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về chủ

thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.........................46

Kết luận chương 2...............................................................................................49

KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................50

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhận định tội phạm về tham

nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm cao độ, là một trong những nguy cơ cản trở

sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là

xử lý nghiêm minh, triệt để loại tội phạm này. Điều này thể hiện rõ trong các Văn

kiện của Đảng qua các thời kỳ khác nhau, mà cụ thể là trong các Văn kiện Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI, IX, X, XI,… gần đây nhất tại Đại hội XII, Đảng ta

xác định: “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ

thường xuyên, quan trọng đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các

cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và toàn hệ thống

chính trị phải kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm

minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành

vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí…”.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp

luật khác nhau, tạo nên một hệ thống tương đối đầy đủ, đồng bộ, điều chỉnh một

cách toàn diện các vấn đề về phòng, chống tội phạm tham nhũng. Có thể kể đến các

văn bản pháp luật quan trọng như: Hiến pháp; Luật Phòng, chống tham nhũng; Bộ

luật Hình sự (BLHS); Bộ luật Tố tụng Hình sự,…Đặc biệt là BLHS năm 2015 đã

sửa đổi, bổ sung một số chính sách lớn đối với tội phạm về tham nhũng nói chung.

Trên cơ sở pháp lý đó, công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta thời gian qua

đã đạt được những kết quả nhất định.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, tham

nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm

vi rộng, tính chất phức tạp, đặc biệt là ngày càng có nhiều các vụ án lạm dụng chức

vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản có tính chất nổi cộm, quy mô lớn, thủ đoạn tinh vi,

phức tạp và tổ chức chặt chẽ như lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ở

Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro (VSP); Công ty TNHH Một thành viên Lọc hóa

dầu Bình Sơn (BSR); Tổng công ty Thăm dò khai thác Dầu khí (PVEP), ….Từ đó,

gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Nguyên nhân

của thực trạng trên một phần là do pháp luật về tội phạm tham nhũng ở nước ta còn

nhiều quy định chưa rõ ràng.

Thực tế trên đã và đang đặt ra vấn đề với các nhà lập pháp trong quá trình

hoàn thiện pháp luật về tội phạm tham nhũng cũng như các cơ quan tư pháp trong

2

điều tra, xét xử tội phạm tham nhũng nói chung, tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền

hạn chiếm đoạt tài sản nói riêng. Đây là lý do tác giả quyết định chọn đề tài “Dấu

hiệu định tội của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo Luật

Hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong thời gian qua, đã có các công trình khoa học quan tâm, nghiên cứu liên

quan đến đề tài ở các phạm vi, mức độ khác nhau như:

Thứ nhất, dưới góc độ luận án, luận văn:

- Trần Đức Huy (2019), Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật Hình sự

Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Tiến sĩ Luật học, Học viện

Khoa học Xã hội. Luận án làm rõ mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật hình

sự nước ta về các tội phạm về tham nhũng với chính sách hình sự nói chung và

chính sách pháp luật hình sự nói riêng về các tội phạm này; làm rõ nội hàm của khái

niệm và các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về tham nhũng, những điểm giống

nhau và khác nhau giữa các tội phạm về tham nhũng và một số tội phạm khác; làm

rõ thực trạng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội phạm về

tham nhũng và thực tiễn áp dụng trong định tội danh và quyết định hình phạt tại các

Tòa án trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, những thành tựu, khó khăn, hạn chế, bất

cập và nguyên nhân của chúng; đề xuất được các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng

pháp luật hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng ở nước ta hiện nay.

- Đỗ Thanh Ngọc (2019), Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

trong Luật hình sự Việt Nam , Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Quốc gia

Hà Nội. Luận văn nghiên cứu toàn diện, hệ thống về mặt lý luận những nội dung

của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt

Nam,trên cơ sở đó rút ra những tồn tại, bất cập và đề xuất việc hoàn thiện quy định

về tội phạm này trong Bộ luật hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống cũng như

giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử đối với tội lạm dụng chức vụ,

quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

- Nguyễn Văn Quản (2020), “Định tội danh đối với hành vi lạm dụng chức

vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật

Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn nghiên cứu quy định về hành vi lợi dụng chức

vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, cũng như phân tích, đánh giá các vụ án thực tiễn

để làm rõ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh đối với hành vi

lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, đồng thời, luận văn cũng đưa ra

3

một số giải pháp để định tội danh đúng đối với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền

hạn chiếm đoạt tài sản.

Thứ hai, dưới góc độ giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo:

- Cuốn sách “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (Phần thứ hai -

Các tội phạm), Chương XV: Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự

do, dân chủ của công dân; Chương XXIII: Các tội phạm về chức vụ” của tác giả

Đinh Văn Quế do Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông ấn hành năm 2019. Tác

giả đã giải thích một cách khoa học về các tội về chức vụ (trong đó có tội lạm dụng

chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản), đồng thời nêu ra một số vấn đề thực tiễn xét

xử và tổng kết công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong những năm qua.

- Cuốn sách “Lý luận chung về định tội danh” của GS.TS Võ Khánh Vinh do

Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành 2013. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề

cập, phân tích khái niệm, cơ sở phương pháp luận của định tội danh; các giai đoạn

định tội danh; định tội danh theo cấu thành tội phạm...Những phân tích, lập luận của

tác giả đã tạo cơ sở lý luận quan trọng cho việc đánh giá hành vi phạm tội trong các

giai đoạn tố tụng hình sự, đặc biệt là tác giả đã chỉ ra rằng việc định tội danh đúng

là biểu hiện của việc thực thi đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng ý chí của nhân

dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã hội, của Nhà

nước và của con người, của công dân thông qua việc áp dụng đúng hình phạt hoặc

các biện pháp pháp lý hình sự. Ngược lại, nếu do sai lầm trong định tội danh thì sẽ

dẫn đến việc quyết định hình phạt không phù hợp với hành vi đã thực hiện, làm cho

bị cáo phải gánh chịu những hậu quả pháp lý không đáng phải gánh chịu và xâm

phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án. Những phân tích của tác giả là

cơ sở quan trọng cho nghiên cứu sinh nghiên cứu, đánh giá việc định tội danh đúng

đối với các tội phạm nói chung, các tội phạm về tham nhũng nói riêng.

Thứ ba, dưới góc độ bài viết khoa học:

Nguyễn Văn Hương (2016), Những điểm mới, những bất cập của quy định về

các tội phạm tham nhũng trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Luật học, số đặc

biệt về Bộ luật Hình sự năm 2015. Bài viết phân tích những điểm mới trong quy

định Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội phạm tham nhũng. Bài viết cũng chỉ ra

những hạn chế, bất cập và đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập trong quy

định của BLHS năm 2015 về vấn đề này.

Qua nghiên cứu, chưa có công trình nào nghiên cứu theo định hướng ứng

dụng, nghiên cứu một cách cụ thể, đầy đủ, toàn diện về vấn đề dấu hiệu định tội của

4

tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Do đó, đề tài “Dấu hiệu định

tội của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo Luật Hình sự Việt

Nam” theo định hướng ứng dụng về tổng thể không trùng lặp với các công trình

nghiên cứu đã công bố trong nước trong những năm gần đây liên quan đến đề tài.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những quy định của pháp luật trong Bộ

luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), trên cơ sở so sánh, đối chiếu với

Bộ luật Hình sự năm 1999 về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

và chủ thể thực hiện hành vi này. Đồng thời, thông qua thực tiễn định tội danh đối với

lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này, tác

giả xác định một số bất cập, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn và kiến nghị, đề xuất

giải pháp tháo gỡ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh đối với lạm

dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này.

Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được những mục đích trên thì luận văn cần làm

rõ những quy định của pháp luật về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm

đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này; thực trạng xác định hành vi lạm dụng

chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu: Với mục đích, nhiệm vụ trên thì luận văn chỉ tập

trung nghiên cứu hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và chủ

thể thực hiện hành vi này.

Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: những quy định của pháp luật trong Bộ luật hình sự năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017), trên cơ sở so sánh, đối chiếu với Bộ luật Hình sự năm

1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm

đoạt tài sản và chủ thể thực hiện hành vi này.

- Về thời gian: từ năm 2015 đến năm 2021.

- Về địa bàn: phạm vi cả nước.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu cụ thể như phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích, tổng hợp, quy

nạp, so sánh, thống kê...., trong đó:

- Các phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích, quy nạp, hệ thống hóa, so sánh

được sử dụng chủ yếu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm và các dấu

5

hiệu pháp lý của các tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;

phân biệt tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản với một số tội

phạm khác, khái quát quá trình quy định và hoàn thiện quy định của pháp luật hình

sự Việt Nam về tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản đến trước

khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh được áp dụng

nhằm đánh giá thực trạng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung

năm 2017 và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự trong định tội danh và

quyết định hình phạt của Tòa án đối với các tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn

chiếm đoạt tài sản, qua đó rút ra những ưu điểm, những hạn chế và nguyên nhân của

hạn chế để làm tiền đề cho việc đề xuất kiến nghị.

- Các phương pháp phân tích, hệ thống được sử dụng nhằm làm rõ những

quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự đối

với tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản phù hợp với yêu cầu

đấu tranh phòng, chống tham nhũng; yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

6. Đóng góp của luận văn

Thứ nhất, luận văn làm rõ nội hàm của khái niệm và các dấu hiệu định tội của

tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, những điểm giống nhau và

khác nhau giữa tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và một số tội

phạm khác, tính kế thừa và phát triển của các quy định pháp luật về tội lạm dụng

chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ở nước ta.

Thứ hai, luận văn làm rõ thực trạng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

hiện hành về dấu hiệu định tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và

thực tiễn áp dụng trong định tội danh và quyết định hình phạt tại các Tòa án, những

thành tựu, khó khăn, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng.

Thứ ba, luận văn đưa ra các kiến nghị bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự

đối với lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ở nước ta trong thời gian tới.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu liệu tham khảo và phần phụ

lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu như sau:

Chương 1. Hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm

đoạt tài sản

Chương 2. Chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

6

CHƯƠNG 1

HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI LẠM DỤNG

CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. Quy định của Bộ luật hình sự về hành vi khách quan của tội lạm

dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Tội phạm là hiện tượng xã hội - pháp lý tồn tại trong bất kỳ xã hội nào, dưới

bất kỳ thời đại nào. Trong luật hình sự, bản chất của tội phạm được thể hiện một

cách tập trung thông qua mặt khách quan hay nói cách khác, tội phạm được phản

ánh rõ nét thông qua những biểu hiện khách quan bên ngoài mà con người có thể

nhận biết được. Bên cạnh đó, mặt khách quan của tội phạm còn là căn cứ để xây

dựng các chế định khác nhau về tội phạm và hình phạt như: phân loại tội phạm,

định tội danh, quyết định hình phạt... Trong các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội

phạm, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất và cũng là biểu hiện cơ bản nhất

của tội phạm nói chung. Các biểu hiện khác thuộc mặt khách quan chỉ xuất hiện khi

có hành vi khách quan. Hành vi khách quan là nguyên nhân gây ra sự biến đổi tình

trạng của đối tượng tác động và do vậy là nguyên nhân của sự gây thiệt hại cho

quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Hành vi khách quan là “cầu nối” giữa

khách thể và chủ thể của tội phạm. Không thể nói đến chủ thể của tội phạm khi

không có hành vi khách quan cũng như khi không có hành vi khách quan thì không

thể nói đến khách thể bảo vệ của luật hình sự bị xâm hại để trở thành khách thể của

tội phạm. Với đặc điểm như vậy, hành vi khách quan được phản ánh trong tất cả các

cấu thành tội phạm. Không có hành vi khách quan thì không có tội phạm.

Ngày 27/6/1985, Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam được ban hành, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát

triển của pháp luật hình sự nước nhà và là cơ sở pháp lý để thực hiện việc đấu tranh

phòng chống tội phạm có hiệu quả. Các quy định của Bộ luật đã thể hiện chính sách

hình sự của Đảng và Nhà nước ta là rất quan tâm và nghiêm khắc trong việc đấu

tranh phòng, chống các tội phạm về tham nhũng. Đồng thời, BLHS 1985 cũng là

văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên mà trong đó các tội phạm về chức vụ được

phân loại thành một nhóm tội phạm, được quy định thành một chương riêng –

Chương IX trong đó có tội lạm dụng chúc vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản được bổ

sung tại lần sửa đổi thứ 4 và khái niệm tội phạm chức vụ cũng đã được chính thức

ghi nhận. Việc quy định tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của

công dân tại một điều luật cụ thể trong bộ luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!