Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Dấu hiệu định tội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
HUỲNH THỊ DIỄM THÚY
DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI CỦA TỘI LẠM DỤNG
TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
DẤU HIỆU ĐỊNH TỘI CỦA TỘI LẠM DỤNG
TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Vũ Thị Thúy
Học viên: Huỳnh Thị Diễm Thúy
Lớp: Cao học Luật HS và TTHS, Khóa 2 Sóc Trăng
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Dấu hiệu định tội của Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu
khoa học độc lập của tôi dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Vũ Thị Thúy.
Các thông tin, tài liệu nêu trong luận văn là trung thực, được trích dẫn rõ ràng
và được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 10 năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
HUỲNH THỊ DIỄM THÚY
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự
LDTNCĐTS : Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. DẤU HIỆU DÙNG THỦ ĐOẠN GIAN DỐI ĐỂ CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN ......................................................................................................................8
1.1. Khái niệm hành vi “dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản”.........8
1.2. Thực tiễn xác định hành vi “dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài
sản” .........................................................................................................................10
1.3. Kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn xác định hành vi “dùng thủ
đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản” ..................................................................21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.........................................................................................24
CHƯƠNG 2. DẤU HIỆU BỎ TRỐN ĐỂ CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN.................25
2.1. Khái niệm hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” ..................................25
2.2. Thực tiễn xác định hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” ....................26
2.3. Kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn xác định hành vi “bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản”................................................................................................32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.........................................................................................39
KẾT LUẬN ...............................................................................................................40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khoản 1 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định như sau: “Mọi người có
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu
sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”.
Để bảo vệ quyền sở hữu của công dân, Nhà nước có nhiều công cụ và biện pháp
khác nhau, trong đó nghiêm khắc nhất là sử dụng pháp luật hình sự, bằng cách quy
định những hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu là tội
phạm và quy định các biện pháp cưỡng chế hình sự với người thực hiện tội phạm
ấy.1
Trong số này có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại
Điều 175 Chương XVI về các tội xâm phạm sở hữu Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017. Đây là một trong những tội phạm xảy ra phổ biến, diễn biến
ngày càng phức tạp, tính chất, mức độ ngày càng tinh vi, nguy hiểm.2
Tuy nhiên, qua thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy còn nhiều vướng
mắc trong xác định dấu hiệu định tội “dùng thủ đoạn gian dối và bỏ trốn để chiếm
đoạt tài sản” trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dẫn đến định
sai tội danh, hình sự hóa các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế hoặc ngược lại bỏ lọt
tội phạm phần nào đã ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
gây ra dư luận, sự hoài nghi về trình độ, năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng,
những người tiến hành tố tụng. Thực trạng nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau nhưng quan trọng nhất là do chưa có văn bản giải thích, hướng dẫn áp
dụng thống nhất các quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự.
Nhằm góp phần tích cực cho công tác nghiên cứu, xây dựng một nhận thức
đúng đắn, thống nhất về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm này trong tình hình mới
và đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, bất cập trong quá trình áp
dụng pháp luật từng bước loại bỏ tình trạng “hình sự hóa” các quan hệ dân sự, kinh
doanh thương mại, “dân sự hóa” các hành vi phạm tội hoặc định nhầm sang các tội
danh khác, những tội danh với khung hình phạt nặng hơn, xâm phạm đến quyền và
lợi ích chính đáng của người phạm tội, tác giả chọn đề tài: “Dấu hiệu định tội của
1
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần các tội
phạm, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.158
2
Lê Quang Sáng (2014), "Bàn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản", Khoa học Kiểm sát, Số 3, tr.66
2
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam” làm đề tài
luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được đề cập
đến nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học, giáo trình, sách tham khảo, bài
viết, bình luận trên các phương tiện thông tin. Điển hình như các công trình sau:
* Các Giáo trình Luật hình sự của các cơ sở đào tạo như: Võ Khánh Vinh
(Chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần
Các tội phạm, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam, TP.HCM; Phạm Mạnh
Hùng (2016), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - tập 1 phần các tội phạm, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Trong một phần, mục của các
giáo trình nêu trên đã trình bày khái niệm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và
phân tích bốn yếu tố cấu thành cơ bản của tội danh này.
* Các bài viết liên quan tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể kể đến:
Ngô Minh Tư (2011), “Nguyễn Văn Thông cùng đồng bọn phạm tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, Kiểm sát, số 13, tr 54; Võ Bảo Anh (2013), Lê Văn
Sua (2013), “Đặng Văn A phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, Tòa án
nhân dân, số 23, tr.32-35; Lê Văn Sua (2015), “Nguyễn Tấn K không phạm tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, Luật sư Việt Nam, số 11, tr.25-29. Các bài viết
trên dừng lại ở tính chất trao đổi quan điểm về một vụ việc cụ thể trong thực tiễn
liên quan đến trường hợp phạm tội hay không phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.
Trần Công Phàn (2006), “Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong các trường hợp có liên quan đến vi phạm
hợp đồng”, Kiểm sát, số 20, tr.3-8. Trong bài viết này tác giả phân tích sự khác biệt
về mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản và phân biệt các hành vi có dấu hiệu giữa lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với hành vi vi phạm hợp đồng.
3
Lê Quang Sáng (2014), “Bàn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”,
Khoa học kiểm sát, số 03, tr.66-68. Trong bài viết này tác giả tập trung phân tích
những vướng mắc trong quy định mức định lượng cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, hành vi đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản và các tình tiết định khung tăng nặng của tội danh
này từ đó nêu ra các giải pháp hoàn thiện.
Ngô Văn Vịnh (2016), “Một số vấn đề cần trao đổi về mặt khách quan của tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật Hình sự năm
2015”, Nghề luật, số 5, tr.46-48. Trong bài viết này tác giả trình bày hai nhóm hành
vi trong mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và đưa ra
kiến nghị hoàn thiện nhóm hành vi đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp
dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản và đề xuất các cơ quan có thẩm quyền sớm
ban hành một số văn bản hướng dẫn một số vấn đề mới được quy trong Bộ luật
Hình sự năm 2015.
Đinh Văn Quế (2016), “Những điểm mới của tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản” quy định trong bộ luật hình sự năm 2015”, Tòa án nhân dân, Số 8,
tr.15-16 và Đinh Văn Quế (2017), “Một số vấn đề về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản” quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015, Kiểm sát, số 18, tr.42-47.
Trong các bài viết này tác giả trình bày những điểm mới về dấu hiệu cấu thành tội
phạm, tình tiết định khung hình phạt của Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 và
cách áp dụng điều luật này khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
* Các khóa luận tốt nghiệp liên quan đến tội danh này có thể kể đến:
Phan Thị Huyền Trang (2010), Đấu tranh phòng chống tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Khóa luận tốt nghiệp, Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Trong khóa luận tốt nghiệp này, dưới gốc độ tội
phạm học tác giả đã trình bày khái quát các quy định của Bộ luật Hình sự về tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của
tội phạm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm này.
Vũ Thị Mai Hương (2011), Định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt tài sản
có thủ đoạn gian dối trong các tội xâm phạm sở hữu, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học
luật thành phố Hồ Chí Minh. Trong khóa luận tốt nghiệp này, tác giả đã phân tích lý
luận chung về định tội danh, quy định của pháp luật và thực tiễn định tội danh đối
4
với hành vi chiếm đoạt có thủ đoạn gian dối từ đó nêu ra kiến nghị hoàn thiện. Tuy
nhiên, tác giả chỉ dừng lại ở việc đề xuất ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thủ
đoạn gian dối trong định tội danh để xác định khi nào là thủ đoạn gian dối, khi nào
biểu hiện gian dối và hoàn thiện năng lực cho các chủ thể định tội danh mà chưa
đưa ra được các đề xuất cụ thể.
Lưu Thanh Thảo (2014), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong Bộ
luật Hình sự năm 1999-Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp,
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Dưới góc độ một khóa luận tốt nghiệp tác giả
đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản, nêu ra một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật. Tuy nhiên, do nghiên cứu bao quát các vấn đề lý luận và thực tiễn nên tác
giả chỉ phân tích những vướng mắc, bất cập trong xác định dấu hiệu dùng thủ đoạn
gian dối và bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản được đề cập chung trong các vướng mắc
khác của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, từ đó chưa thấy được đầy đủ,
toàn diện các bất cập mà thực tiễn gặp phải khi áp dụng hai dấu hiệu này.
Các công trình nghiên cứu trên là một phần, mục trong giáo trình, sách tham
khảo hoặc trong các bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành và các khóa
luận tốt nghiệp có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn. Ở những góc độ và
mức độ khác nhau, các công trình nghiên cứu nêu trên đã phân tích và làm rõ được
các vấn đề như: Phân tích khái quát khái niệm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản và bốn yếu tố cấu thành cơ bản của tội danh này; So sánh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội trong Bộ luật Hình sự như tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, tội tham ô tài sản, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với các trường hợp vi phạm hợp
đồng kinh tế, hợp đồng dân sự; Phân tích tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
ở góc độ tội phạm học; Trình bày được các bất cập, vướng mắc mà thực tiễn gặp
phải khi áp dụng các quy định của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Trình
bày các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Theo đánh giá của tác giả, mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề
cập đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên chưa có công trình, đề
tài nghiên cứu, bài viết nào xem xét, phân tích chuyên sâu, toàn diện những tồn tại,
hạn chế mà thực tiễn gặp phải khi áp dụng dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối và bỏ
5
trốn để chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra, trong các tài liệu nêu trên tuy đã phân tích
được các nguyên nhân dẫn đến tồn tại và hạn chế trong quá trình giải quyết các vụ
án liên quan đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như nguyên nhân từ đội
ngũ cán bộ, chuyên môn, nghiệp vụ của những người tiến hành tố tụng, do thiếu sót
trong quá trình thu thập và đánh giá chứng cứ,…nhưng chưa đào sâu nguyên nhân
do hạn chế về pháp luật nên khi đề xuất các giải pháp cũng chưa chú trọng đề xuất
hoàn thiện quy định pháp luật và ban hành văn bản giải thích, hướng dẫn liên quan
đến hai dấu hiệu định tội dùng thủ đoạn gian dối và bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản.
Với tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài ở gốc độ
thực tiễn áp dụng dấu hiệu định tội dùng thủ đoạn gian dối và bỏ trốn để chiếm đoạt
tài sản được quy định trong điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017 nhằm góp phần có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về tội
phạm này trong bối cảnh hiện nay, kết quả của những công trình nghiên cứu, bài
viết đã công bố sẽ là một trong những nguồn tài liệu tham khảo quan trọng mà tác
giả có thể vận dụng, kế thừa và bổ sung để hoàn thiện luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản để làm sáng tỏ nội hàm dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối và bỏ
trốn để chiếm đoạt tài sản, qua đó thấy được những khó khăn, bất cập mà thực tiễn
đang gặp phải và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm áp dụng thống
nhất các dấu hiệu này khi giải quyết các vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng xác định dấu hiệu định tội dùng thủ đoạn gian dối và
bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thuận lợi và áp dụng thống nhất
hai dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối và bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của pháp luật hình sự và thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự hai dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối và bỏ trốn để
6
chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua một số
vụ án thực tiễn điển hình trên phạm vi cả nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng dấu hiệu định
tội dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản và bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản
trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Phạm vi về không gian, thời gian: Luận văn nghiên cứu tình hình giải quyết
các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên phạm vi cả nước trong khoản
thời gian từ năm 1999 đến 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, tác giả sử dụng đồng bộ các phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp: được tác giả sử dụng để làm rõ
những những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn xác định dấu hiệu dùng thủ đoạn
gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản thông qua các báo cáo, cáo trạng, bản án.
- Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng để phân biệt tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản với các trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế, hợp đồng
dân sự, với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản;
- Phương pháp nghiên cứu án điển hình: thông qua nghiên cứu hồ sơ các vụ án
cụ thể, tác giả trình bày những hợp lý và những bất hợp lý mà các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng đã áp dụng quy định của pháp luật để đưa ra kiến
nghị hoàn thiện.
6. Dự kiến kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng kết quả nghiên cứu
6.1. Kết quả nghiên cứu
Qua các vụ án điển hình, luận văn phân tích, làm rõ những bất cập mà thực
tiễn đang gặp phải khi xác định có hay không dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối và bỏ
trốn để chiếm đoạt tài sản từ đó nêu ra các đề xuất sửa đổi và ban hành văn bản giải
thích, hướng dẫn xác định dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối và bỏ trốn để chiếm đoạt
tài sản nhằm nâng cao hiệu quả công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
7
6.2. Địa chỉ ứng dụng kết quả ngiên cứu
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa như là một nguồn tài liệu tham
khảo phục vụ cho thực tiễn xác định dấu hiệu định tội của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản; phục vụ công tác nghiên cứu, học tập; những đề xuất trong luận
văn có thể tham khảo trong công tác lập pháp để hoàn thiện pháp luật về tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản góp phần khắc phục những hạn chế, vướng mắc
đang tồn tại, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn được kết
cấu gồm 2 chương, cụ thể:
Chương 1. Dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
Chương 2. Dấu hiệu bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản
8
CHƯƠNG 1
DẤU HIỆU DÙNG THỦ ĐOẠN GIAN DỐI
ĐỂ CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm hành vi “dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản”
Hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác là một
trong những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu của công
dân được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017.
Chiếm đoạt tài sản của người khác được hiểu là hành vi cố ý chuyển biến trái
pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của người khác thành tài sản của mình.3
Từ khái niệm về hành vi chiếm đoạt tài sản có thể rút ra một số đặc điểm cho
hành vi này như sau:
- Hành vi chiếm đoạt tài sản, xét về mặt khách quan là hành vi làm cho chủ tài
sản mất khả năng thực tế thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài
sản của mình đồng thời tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đó. Tuy nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật
nên người chiếm đoạt chỉ có các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trên thực tế
còn về mặt pháp lý thì tài sản đó vẫn thuộc quyền của chủ sở hữu tài sản.
- Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc
điểm là còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lý của chủ tài sản, người được chủ sở
hữu giao quản lý. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự quản lý, chiếm hữu của chủ tài sản
thì không phải là đối tượng của hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Xét về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có lỗi cố ý
trực tiếp. Người phạm tội biết rõ là tài sản chiếm đoạt đang có người quản lý nhưng
vẫn mong chuyển biến trái pháp luật một phần hoặc toàn bộ tài sản đó thành tài sản
của mình.
Việc xác định có ý định chiếm đoạt tài sản hay không, thời điểm nảy sinh ý
định chiếm đoạt tài sản trướrc hay sau khi nhận được tài sản có ý nghĩa quan trọng
trong việc phân biệt tội LDTNCĐTS với các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt khác và phân biệt tội LDTNCĐTS với các quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ
kinh tế (không phải là tội phạm).
3
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), tlđd (1), tr.166