Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đánh giá tác động về kinh tế của festival huế 2004 đối với khách sạn, nhà hàng tại thành phố huế
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày nay, Du lịch Lễ hội đã trở thành một loại hình Du lịch phát triển
trên thế giới. Các quốc gia có ngành công nghiệp Du lịch phát triển rất chú
trọng đến việc tổ chức các Lễ hội nhằm mục đích thu hút khách Du lịch.
Những Lễ hội nổi tiếng thế giới như: Festival de la Rochell, Festival d' Avigon
(cộng hòa Pháp), Lễ hội Canaval ở Braxin,... đã thu hút hàng triệu du khách
đến với đất nước của họ. Rõ ràng, Lễ hội đang ngày càng có sức hấp dẫn mạnh
mẽ với khách Du lịch.
Việt Nam chúng ta, một đất nước hàng ngàn năm văn hiến, với 54 dân
tộc anh em, mỗi năm có khoảng 402 Lễ hội truyền thống [5] mang nhiều sắc
thái văn hóa khác nhau là tiềm năng to lớn để phát triển loại hình Du lịch Lễ
hội. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh:" ...Phát triển Du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái,
truyền thống văn hóa lịch sử...". Quan điểm đó tiếp tục được phát triển trong
chương trình hành động quốc gia về Du lịch, đó là :"... Du lịch văn hóa gắn với
Lễ hội ..." được xem như định hướng chiến lược phát triển Du lịch bền vững tại
Việt Nam.
Xét ở những góc độ khác nhau, mỗi một Lễ hội đều có những nội dung
đặc thù của nó và có những mục tiêu riêng biệt. Tuy nhiên, đứng trên quan
điểm kinh tế, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, dù trực tiếp hay gián tiếp, việc
tổ chức các Lễ hội bao giờ cũng hàm chứa mục tiêu kinh tế. Điều này ngày
càng được quan tâm nhiều hơn trong các kỳ Lễ hội của các địa phương trong
cả nước.
Đối với Tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH), với chủ trương xây dựng Thành
phố Huế trở thành Thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam nhằm tạo cơ hội
1
giao lưu văn hóa giữa các vùng miền trong nước và giữa các nước trên thế giới;
Giới thiệu, quảng bá những tinh hoa văn hóa Huế, văn hóa Việt Nam; góp phần
thúc đẩy kinh tế địa phương, đặc biệt là kinh tế Du lịch - một thế mạnh của tỉnh
TTH. Festival Huế đã được tổ chức 3 lần vào các năm 2000, 2002, 2004. Theo
đánh giá của Ban tổ chức Festival Huế và Lãnh đạo tỉnh TTH, các kỳ Festival
vừa qua đã thành công nhiều mặt, đã đạt được các mục tiêu đề ra, đã có tác
động tốt đến kinh tế, văn hóa, xã hội và nhiều lĩnh vực khác của tỉnh.
2. Lý do chọn đề tài
Tuy đã có khá nhiều đánh giá về Festival Huế nhưng hầu hết đều ở
phương diện tổng quát và chủ yếu mang tính chất mô tả, định tính. Các đánh
giá chủ yếu tập trung vào lĩnh vực Văn hóa, Xã hội, yếu tố tác động về kinh tế
của Festival chưa được đặt lên đúng mức. Cho đến nay, chưa có công trình
nghiên cứu nào đánh giá một cách cụ thể sâu sắc và toàn diện về những tác
động của Festival Huế đến sự phát triển kinh tế Du lịch của Tỉnh.
Với những lý do đã nêu trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Đánh
giá tác động về kinh tế của Festival Huế 2004 đối với Khách sạn, Nhà hàng
tại Thành phố Huế" với mong muốn sử dụng lý luận về tác động kinh tế của
ngành Du lịch; kinh nghiệm nghiên cứu đánh giá tác động kinh tế của Festival
tại một số nước có ngành công nghiệp Du lịch phát triển để đánh giá tác động
kinh tế của Festival Huế 2004 đối với Khách sạn, Nhà hàng trên địa bàn Thành
phố Huế (TPH) một cách sâu sắc và toàn diện hơn.
3. Mục tiêu của đề tài
3.1 Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở lý luận về Du lịch, Lễ hội; những tác động về mặt kinh tế của
Du lịch, Lễ hội; các lý luận và thực tiễn việc đánh giá tác động kinh tế của Du
lịch Lễ hội (Festival) tại một số nước có ngành công nghiệp Du lịch phát triển,
xây dựng các chỉ tiêu đánh giá đánh giá tác động của Festival Huế. Thông qua
khảo sát, điều tra, khách tham dự Festival 2004 và các Doanh nghiệp kinh
2
doanh Khách sạn, Nhà hàng trên địa bàn TPH, đánh giá tổng quát tác động trực
tiếp của của Festival 2004 phát sinh bởi mức chi tiêu của khách tham dự. Đi
sâu đánh giá các yếu tố tác động trực tiếp về kinh tế của Festival 2004 đối với
các cơ sở kinh doanh Khách sạn, Nhà hàng tại TPH.
3.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Du lịch, Du lịch Lễ
hội, những tác động ảnh hưởng của Du lịch nói chung và Du lịch Lễ hội nói
riêng đến kinh tế của quốc gia, vùng và địa phương. Trên cơ sở đó, bước đầu
xây dựng phương pháp luận đánh giá tác động kinh tế của Festival Huế.
- Giới thiệu phương pháp ước tính những tác động về kinh tế của một
Lễ hội (Festival). Xây dựng cơ sở khoa học cho việc đánh giá nhằm lượng hóa
các tác động về kinh tế của Festival Huế.
- Thông qua số liệu điều tra, khảo sát của các kỳ Festival Huế đi sâu
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu của khách tham quan Festival
2004, thông qua đó đánh giá tổng quát tác động chi tiêu của khách đến kinh tế
Du lịch địa phương.
- Từ kết quả nghiên cứu, đưa ra các kết luận ban đầu về tác động kinh tế
của Festival Huế 2004 đối với các cơ sở kinh doanh Khách sạn, Nhà hàng tại
TPH, đề ra các giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực về kinh tế của
Festival Huế.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1 Về nội dung
Một đánh giá đầy đủ về tác động kinh tế của Lễ hội (Festival) đòi hỏi
phải đánh giá các "tác động trực tiếp", "tác động gián tiếp" và "tác động lâu
dài". Để thực hiện những việc này cần phải có cơ sở dữ liệu về “hệ số tăng gấp
bội” trong ngành Du lịch của vùng nghiên cứu (Tỉnh TTH). Tuy nhiên, hiện
nay chúng ta chưa xây dựng được các dữ liệu này. Đồng thời do hạn chế về
3
thời gian nghiên cứu, đề tài chỉ dừng lại ở giai đoạn đánh giá tác động (trực
tiếp) của lượng tiền chi tiêu do khách tham dự Festival Huế 2004 mang lại đối
với các Khách sạn và Nhà hàng tại TPH. Đây là những thành phần kinh tế
hưởng lợi trực tiếp từ Festival Huế 2004.
Mặt khác, đề tài được thực hiện vào thời điểm Festival 2004 đã kết thúc
khá lâu, Festival 2006 lại chưa đến nên việc điều tra, khảo sát khách tham dự
ngay trong thời gian diễn ra Festival không thể thực hiện được, đây là nguyên
nhân dẫn đến kết quả điều tra khách tham dự có nhiều hạn chế về cả số lượng
lẫn thông tin. Do vậy, kết quả phân tích, đánh giá của đề tài mang nhiều tính
học thuật hơn là thực tiễn.
4.2 Về không gian
Vùng nghiên cứu được xác định là địa bàn Tỉnh TTH. Đi sâu nghiên cứu
tại TPH và một số địa bàn có các hoạt động của Festival.
4.3 Về thời gian
Nghiên cứu Festival Huế trong mối quan hệ với sự phát triển kinh tế Du
lịch của Việt Nam và kinh tế Du lịch TTH từ năm 1999 - 2004.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH, TÁC ĐỘNG
KINH TẾ CỦA LỄ HỘI (FESTIVAL)
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH - CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH
VÀ DU LỊCH LỄ HỘI
1.1.1 Khái niệm về Du lịch
Ngày nay, Du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
cho đến nay không chỉ ở nước ta mà trên cả bình diện quốc tế, nhận thức về Du
lịch và nội dung của Du lịch vẫn chưa thống nhất một cách triệt để.
Trong số những quan điểm phổ biến hiện nay, quan điểm của các tác giả
Hoa kỳ gồm Robert W. McIntosh, Charles R.Goeldner, J.R Brent Ritcie được
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều đọc giả đánh giá là mang tổng hợp và khái quát
cao, được sử dụng làm cơ sở cho nhiều nghiên cứu. Các tác giả này phát biểu
rằng: "Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ nảy sinh từ tác động qua lại giữa
khách Du lịch, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng chủ nhà trong quá trình
thu hút và đón tiếp Du khách”[37,5].
Với cách tiếp cận tổng hợp ấy các tác giả Goeldner, Ritchie và McIntosh,
cho rằng cần phải xác định đầy đủ các thành phần tham gia vào hoạt động Du
lịch. Các thành phần đó bao gồm [37,5]:
- Thành phần thứ nhất là Khách Du lịch: đây là những người tìm kiếm
kinh nghiệm và sự thoả mãn về vật chất hoặc tinh thần. Du khách sẽ xác định
điểm đến và được lựa chọn các hoạt động tham gia, thưởng thức.
- Thành phần thứ hai là các Doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch
vụ cho Khách Du lịch: các nhà kinh doanh xem Du lịch là cơ hội để kiếm lợi
5
nhuận thông qua việc cung cấp các hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng cho nhu
cầu của thị trường khách.
- Thành phần thứ ba là chính quyền sở tại: những người lãnh đạo
chính quyền địa phương nhìn nhận Du lịch như là một yếu tố có tác dụng tốt
cho nền kinh tế thông qua triển vọng về thu nhập từ hoạt động kinh doanh cho
dân cư địa phương, ngoại tệ thu được từ khách Quốc tế và tiền thuế thu được
cho ngân quỹ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Thành phần thứ tư là cộng đồng dân cư địa phương: dân cư địa
phương xem Du lịch là một nhân tố tạo ra việc làm và giao lưu văn hoá. Một
điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là hiệu quả của sự giao lưu giữa số lượng
lớn du khách Quốc tế và dân cư địa phương. Hiệu quả này diễn ra trên hai
hướng vừa có lợi vừa có hại.
Đối với Việt Nam, Du lịch là một lĩnh vực khá mới mẻ nhưng các nhà
nghiên cứu của Việt Nam cũng đưa ra nhiều quan điểm, khái niệm xét trên
nhiều góc độ khác nhau về Du lịch.
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam (xuất bản năm 1996) thì Du
lịch được giải thích trên 2 góc độ. Thứ nhất: “Du lịch là một dạng nghỉ dưỡng
sức, tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi,
giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá nghệ
thuật,v v." Theo nghĩa thứ hai: “Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có
hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch
sử văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với
người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế Du lịch là
lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là ngành xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ tại chỗ”.
Theo pháp lệnh Du lịch do Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam công bố ngày 20/02/1999: “Du lịch là hoạt động của con người
6
ngoài nơi cư trú thuờng xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [33,5].
Tuy có nhiều quan điểm và khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung, Du
lịch luôn được hiểu theo hai góc độ chính [12,5] đó là:
- Dưới góc độ khách Du lịch: Du lịch là cuộc hành trình và lưu trú của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên và quay trở lại nhằm thoả mãn những
nhu cầu khác nhau với những mục đích khác nhau, loại trừ mục đích nhận làm
công và nhận thù lao ở nơi đến.
- Dưới góc độ nhà kinh doanh Du lịch: Du lịch là một lĩnh vực bao gồm
các hoạt động tạo ra những dịch vụ, hàng hoá để thoả mãn nhu cầu của khách
du lịch nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Năm 1963, với mục đích quốc tế hoá, tại hội nghị Liên Hiệp Quốc về Du
lịch họp tại Roma (Ý) đã thống nhất định nghĩa về Du lịch như sau: “Du lịch
là tổng hợp các mối quan hệ, các hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn
từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở
thường xuyên của họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến không phải là nơi làm
việc của họ” [27,12].
Tùy theo từng góc độ nghiên cứu, chúng ta có thể sử dụng khái niệm nêu
tại pháp lệnh Du lịch hoặc khái niệm của Liên Hiệp Quốc (1963). Hai khái
niệm nêu trên sẽ là cơ sở lý luận của luận văn này.
1.1.2 Một số khái niệm liên quan khác
Để thuận lợi cho quá trình học tập, nghiên cứu, tập thể tác giả trường Đại
học Kinh tế Quốc dân đã biên dịch một số thuật ngữ khác trong Du lịch [12,6-
7] như sau:
1.1.2.1 Lữ khách (Traveller)
Là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến nơi nào
7
đó với những mục đích khác nhau và quay trở lại.
1.1.2.2 Khách viếng thăm (Visitor)
Là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến một nơi
nào đó với những mục đích khác nhau và quay trở lại, loại trừ mục đích làm
công và nhận thù lao ở nơi đến.
1.1.2.3 Khách tham quan (Excursionit, Samedayvisitor)
Là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến một nơi
nào đó và quay trở lại với những mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm
công và nhận thù lao nơi đến; có thời gian lưu lại nơi đến không quá 24 giờ
(không sử dụng dịch vụ lưu trú qua đêm).
1.1.2.4 Khách Du lịch (Tourist)
Là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến một nơi
nào đó và quay trở lại với những mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm
công và nhận thù lao nơi đến; có thời gian lưu lại nơi đến từ 24 giờ trở lên
(hoặc có sử dụng dịch vụ lưu trú qua đêm) và không quá một thời gian qui định
tuỳ theo từng Quốc gia.
1.1.2.5 Khách Du lịch quốc tế (International tourist)
Là khách Du lịch có điểm xuất phát và điểm đến Du lịch thuộc phạm vi
lãnh thổ của hai quốc gia khác nhau.
1.1.2.6 Khách Du lịch nội địa (Internal tourist)
Là công dân của một quốc gia và những người nước ngoài đang cư trú tại
quốc gia đó đi Du lịch trên lãnh thổ quốc gia đó.
1.1.3 Các lĩnh vực kinh doanh trong Du lịch
Trên thực tế, việc phân định rõ ràng các lĩnh vực kinh doanh trong Du
lịch là không đơn giản bởi nhu cầu Du lịch rất đa dạng và biến đổi theo sự tăng
8
trưởng kinh tế toàn cầu. Cho đến nay, về phương diện lý thuyết cũng như thực
tế được chấp nhận ở nhiều nước trên thế giới [27,77-78], có bốn loại hình kinh
doanh Du lịch tiêu biểu sau.
1.1.3.1 Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business)
Kinh doanh lữ hành có nhiệm vụ: “Giao dịch, ký kết với các tổ chức kinh
doanh Du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương
trình Du lịch đã bán cho khách”. Đối với ngành kinh doanh lữ hành, có hai
hoạt động chủ yếu như sau:
- Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business): là thực hiện các hoạt
động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình Du lịch trọn gói hay
từng phần; quảng cáo và bán chương trình trực tiếp hoặc gián tiếp qua các
trung gian đại lý, văn phòng; tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn Du
lịch.
- Kinh doanh đại lý lữ hành (Travel Sub - Agency Business): là việc thực
hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận chuyển, hướng dẫn tham
quan, bán các chương trình Du lịch của các doanh nghiệp lữ hành (để hưởng
hoa hồng), cung cấp thông tin Du lịch và tư vấn Du lịch.
Việc phân định này chỉ mang tính tương đối vì trong một doanh nghiệp
có thể tồn tại nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
1.1.3.2 Kinh doanh khách sạn (Hospitality Business)
Kinh doanh khách sạn có nhiệm vụ tổ chức đón tiếp, phục vụ việc lưu
trú, ăn uống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách Du lịch. Theo Pháp lệnh Du
lịch Việt Nam ban hành năm 1999, tại Chương V, Điều 25 lĩnh vực kinh doanh
này được qui định là “Kinh doanh cơ sở lưu trú Du lịch”. Trong thực tế nó
cũng gần như đồng nghĩa với “Kinh doanh Khách sạn, Nhà hàng”.
1.1.3.3 Kinh doanh vận chuyển Du lịch (Tourist Transportation Business)
9
Nhiệm vụ chủ yếu của lĩnh vực kinh doanh này là giúp cho khách dịch
chuyển từ nơi này đến nơi khác trong chuyến Du lịch của mình. Ngày nay, với
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nhiều loại phương tiện vận chuyển được đưa
vào phục vụ kinh doanh Du lịch như: ô tô, tàu hỏa, tàu thủy, máy bay và ngay
cả những phương tiện thô sơ cũng được sử dụng.
1.1.3.4 Kinh doanh các dịch vụ khác (Other tourism business)
Cùng với xu hướng phát triển ngày càng đa dạng của nhu cầu Du lịch
việc bổ sung các dịch vụ cho khách Du lịch là hết sức cần thiết. Vì vậy, ngoài
ba lĩnh vực kinh doanh như đã nêu trên, trong Du lịch còn có một số hoạt động
kinh doanh bổ trợ như kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí; hệ thống các cơ sở
bán lẻ; tuyên truyền, quảng bá, tư vấn đầu tư Du lịch....
1.1.4 Nhu cầu Du lịch
Nhu cầu Du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người
[12,8-9], được hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý và tinh
thần. Nhu cầu Du lịch phát sinh là kết quả tác động của lực lượng sản xuất và
trình độ sản xuất xã hội.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khi mà hoạt động xã hội càng cao mối
quan hệ xã hội càng được hoàn thiện thì nhu cầu Du lịch trở nên quan trọng và
được ưu tiên giải quyết hàng đầu trong cuộc sống. Khi nhu cầu Du lịch trở
thành cầu Du lịch tức là khách hàng có khả năng thanh toán, có sẵn thời gian
nhàn rỗi thì sẵn sàng có những chuyến Du lịch. Nhu cầu của khách Du lịch bao
gồm: nhu cầu thiết yếu, nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung.
1.1.4.1 Nhu cầu thiết yếu
Nhu cầu thiết yếu trong Du lịch là những nhu cầu về vận chuyển, lưu trú
và ăn uống cần phải được thoả mãn trong chuyến hành trình Du lịch.
1.1.4.2 Nhu cầu đặc trưng
10