Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Bồi thường thiệt hại cho người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động Tố tụng hình sự
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
ĐINH MINH TUÂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số cn: 8380103
Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Xuân Quang
Học viên : Đinh Minh Tuân
lớp : Cao học luật, Phú Yên Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Xuân Quang. Nội dung các vụ việc
được nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn theo đúng quy định.
Tác giả
Đinh Minh Tuân
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1 Bộ luật Dân sự BLDS
2
Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính
phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Nghị định số
68/2018/NĐ-CP
3
Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày
17/3/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi
thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
Nghị quyết số
388/2003/NQUBTVQH11
4 Người thi hành công vụ NTHCV
5 Tòa án nhân dân TAND
6 Tòa án nhân dân tối cao TANDTC
7
Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTCTANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày
02/11/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ tài
chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hướng
dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
trong hoạt động TTHS
Thông tư liên
tịch số
05/2012/TTLTVKSNDTCTANDTC-BCABTP-BQP-BTCBNN&PTNT
8 Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước TNBTCNN
9 Tố tụng hình sự TTHS
10 Ủy ban Thường vụ Quốc hội UBTVQH
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. XÁC ĐỊNH NGƯỜI THÂN THÍCH CỦA NGƯỜI BỊ THIỆT
HẠI TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐƯỢC BỒI THƯỜNG......8
1.1. Cơ sở để bồi thường cho người thân thích của người bị thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự.....................................................................................8
1.2. Xác định người thân thích của người bị thiệt hại được xem xét bồi
thường ..................................................................................................................12
1.2.1. Khái niệm người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động tố
tụng hình sự ......................................................................................................12
1.2.2. Tiêu chí xác định người thân thích của người bị thiệt hại được xem xét
bồi thường.........................................................................................................15
1.3. Cơ quan xác định người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự ...........................................................................................17
1.3.1. Cơ quan có người thi hành công vụ gây ra “oan sai”...........................18
1.3.2. Tòa án nhân dân có thẩm quyền khi người bị thiệt hại phát sinh đơn
khởi kiện yêu cầu bồi thường ...........................................................................21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................24
CHƯƠNG 2. CÁC LOẠI THIỆT HẠI ĐƯỢC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI
THÂN THÍCH CỦA NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ ĐƯỢC BỒI THƯỜNG.............................................................25
2.1. Thiệt hại về vật chất của những người thân thích của người bị oan sai
trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................................................26
2.2. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người
bị oan sai trong hoạt động tố tụng hình sự.......................................................31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................39
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 và Luật Trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước năm 2017 được ban hành đã thực sự trở thành công cụ pháp
lý quan trọng để tổ chức, cá nhân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đồng
thời, các văn bản Luật này còn là cơ chế hiệu quả để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền
lực nhà nước, phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ, góp
phần nâng cao ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công
chức nói riêng cũng như chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung.
Hiện nay chúng ta chưa có định nghĩa chính thức về thuật ngữ “Trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước” nhưng thông qua văn bản pháp luật cũng như thực tiễn
pháp lý và trên cơ sở lý luận, chúng ta có thể hiểu: Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước là trách nhiệm pháp lý dân sự thể hiện việc Nhà nước phải gánh chịu hậu quả
bất lợi mà cụ thể là bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị xâm hại xuất phát từ hành vi
trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
được Nhà nước giao1 hay có thể hiểu “trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù đắp những tổn thất về
tinh thần trong trường hợp cán bộ, công chức nhà nước có hành vi trái pháp luật
trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của cá nhân, tài sản, uy tín của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
khác”2
. Hiện nay, Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định cơ bản, cụ thể việc bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS. Tuy nhiên, đối với
việc bồi thường thiệt hại cho người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động
TTHS thì hiện nay Luật chưa có quy định cụ thể, bởi luật hiện hành mặc dù đã quy
định người thân thích liên quan đến người bị thiệt hại được bồi thường về vật chất
như chồng bị oan thì vợ, con người đó đi chăm nom, đi lại, ăn ở... được bồi thường
nhưng xét đến cùng thì đó cũng là chi phí liên quan trực tiếp đến người bị thiệt hại.
Riêng bồi thường về mặt tinh thần thì luật mới quy định bồi thường cho người bị
thiệt hại, người thân thích chưa có quy định được bồi thường và Luật quy định việc
1 Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín (2018), Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của nhà nước,
Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.15.
2 Cục Bồi thường nhà nước - Bộ Tư pháp (2019), Chỉ dẫn áp dụng pháp luật về Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước, Nxb. Công an nhân dân, tr.11.
2
bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất
của người bị thiệt hại giới hạn chỉ trong trường hợp người đó đã chết.
Có thể khẳng định khi một người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS thì chính
bản thân họ bị thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần, không những thế gia đình, bố
mẹ, con cái cũng phải chịu thiệt hại rất nghiêm trọng, phải bỏ học, bỏ việc, bị kỳ thị,
thậm chí xấu hơn là tự vẫn… Trên thực tế khi thực hiện bồi thường thiệt hại thì các
cơ quan thực hiện cũng có quan điểm khác nhau như có cơ quan ghi nhận việc thiệt
hại của cả người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS và thực
hiện bồi thường nhưng có cơ quan không thống nhất những thiệt hại của người thân
thích nên không thực hiện bồi thường vì Luật TNBTCNN không có quy định.
Xuất phát từ những những lý do trên tác giả muốn tìm hiểu, nghiên cứu, đánh
giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật
để làm rõ nội dung liên quan đến “Bồi thường thiệt hại cho người thân thích của
người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự” với mong muốn góp phần hoàn
thiện các vấn đề về lý luận và thực tiễn đối với nội dung này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, vấn đề về trách nhiệm bồi thường của nhà nước nói
chung và về các khoản bồi thường, mức bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại
nói riêng đã được giới nghiên cứu khoa học pháp lý quan tâm, đề cập ở nhiều góc
độ khác nhau. Qua tìm hiểu, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu có liên
quan đến trách nhiệm bồi thường của nhà nước mà tác giả muốn đề cập đến, trong
đó có một số công trình nổi bật, như:
- Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2015), “Giáo trình Pháp luật về
hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam và “Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam năm 2017, của
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung giáo trình đã có mục riêng
để phân tích cụ thể về bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức, người có thẩm
quyền tố tụng gây ra theo Luật TNBTCNN, giáo trình đã phân tích khái quát chủ
thể phải bồi thường, những căn cứ để yêu cầu bồi thường, những thiệt hại, tổn thất
được bồi thường, nêu cụ thể về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt
động quản lý hành chính, trong hoạt động thi hành án và đặc biệt là phân tích, đưa
3
ra nhiều dẫn chứng rất chi tiết để làm rõ nội dung về TNBTCNN trong hoạt động tố
tụng như về những trường hợp được bồi thường, chủ thể phải bồi thường, thủ tục
bồi thường,… Do tính chất yêu cầu của giáo trình nên chỉ đề cập, phân tích những
nội dung mang tính chất khái quát cao, không đi sâu phân tích những vấn đề cụ thể
nên các giáo trình này chưa đề cập chi tiết đến việc bồi thường cho những người
thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS. Tuy nhiên, những kiến
thức, phân tích của giáo trình là cơ sở trong việc tạo nền tảng kiến thức cho tác giả
để thực hiện tốt việc tìm hiểu phân tích những nội dung về vấn đề bồi thường thiệt
hại cho người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS.
- Sách chuyên khảo “Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của nhà
nước”, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam năm 2018, của tác giả Đỗ
Văn Đại và Nguyễn Trương Tín. Tại công trình này các tác giả đã nêu khái quát về
TNBTCNN theo pháp luật Việt Nam và phân tích, bình luận về các lĩnh vực thường
phát sinh trách nhiệm bồi thường; căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, trình
tự, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường và trách nhiệm giải quyết yêu cầu bồi thường
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các tác giả đã phân tích, đánh giá các quy định
pháp luật hiện hành và trên cơ sở đối chiếu với thực tiễn cuộc sống đặc biệt là dẫn
chiếu các bản án, một số quy định pháp luật của một số nước để làm rõ các quy định về
TNBTCNN trong đó có phân tích một số bất cập từ đó đề xuất nên xem xét để có quy
định bồi thường về tổn thất vật chất và tinh thần cho người thân của người bị “oan sai”,
đưa ra một số phân tích, bình luận nội dung về chi phí của thân nhân đối với những
thiệt hại vật chất khác được bồi thường khi người thân của họ bị “oan sai” như chi phí
thăm gặp, chi phí đi lại…. Tuy nhiên, các tác giả chưa đi sâu vào nội dung về những
tổn thất vật chất, tổn thất tinh thần mà người thân thích của người bị “oan sai” trong
hoạt động TTHS phải chịu và cần được bồi thường, chưa làm rõ những người thân
thích của người bị “oan sai” là ai và phân tích mức bồi thường như thế nào là phù hợp.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Hồng Khoáng về "Cơ quan có trách nhiệm
bồi thường theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước". Luận văn đã làm rõ
một số vấn đề về cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước trong việc bồi thường thiệt
hại do người thi hành công vụ gây ra. Luận văn đã so sánh, đối chiếu giữa thực tiễn
với các quy định của pháp luật và bình luận, phân tích làm rõ trách nhiệm của Nhà
nước trong việc bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra. Đồng thời,
tác giả cũng đã đề cập đến việc xác định thiệt hại được bồi thường, phân tích những
4
loại thiệt hại được bồi thường; chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và bất cập của
pháp luật về việc xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; thiệt hại thu nhập bị mất
hoặc bị giảm sút; thiệt hại vật chất do người bị thiệt hại chết và việc khôi phục các
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, trong công trình này, tác
giả chưa nghiên cứu làm rõ những thiệt hại thực tế của những người thân thích của
người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS phải chịu tổn thất về vật chất, về tinh thần
và những khó khăn, vướng mắc về mức bồi thường thiệt hại cho đối tượng này.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Oanh về "Căn cứ xác định trách
nhiệm bồi thường của nhà nước theo quy định của pháp luật Việt Nam". Luận văn
đã bình luận, phân tích làm rõ về các căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả có đề cập về những thiệt
hại được bồi thường của người bị thiệt hại và đề xuất cần bồi thường thiệt hại cho
thân nhân của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, luận văn này chưa nêu cụ thể và không
đi sâu nghiên cứu, phân tích việc bồi thường thiệt hại cho người thân thích của
người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS.
Liên quan đến vấn đề được nghiên cứu trong luận văn còn có các bài viết của
nhiều tác giả khác nhau được đăng trong các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành
mà tiêu biểu là:
- Trần Thị Thu Hằng, “Tìm hiểu đôi nét về quyền được bồi thường và chức
năng hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện quyền được bồi thường” đăng trên Trang
thông tin về bồi thường Nhà nước - Bộ Tư pháp3
. Tác giả đã nêu về quyền được bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra và chức
năng hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện quyền được bồi thường của mình. Phân tích
chức năng hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện quyền được bồi thường của một số cơ
quan nhà nước trên thế giới và tại Việt Nam, bài viết đã tìm hiểu việc thể chế hóa
quyền được bồi thường ở các cấp độ khác nhau và các thiết chế để bảo đảm thực
hiện quyền này ở các cấp độ tương ứng. Tuy nhiên bài viết chưa đề cập riêng việc
hỗ trợ bồi thường thiệt hại cho người thân thích của người bị thiệt hại trong TTHS.
- Hoàng Minh Hội, “Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại cho người bị
buộc tội trái pháp luật trong tố tụng hình sự” đăng trên Nghiên cứu lập pháp số
3 Trần Thị Thu Hằng, “Tìm hiểu đôi nét về quyền được bồi thường và chức năng hỗ trợ người bị thiệt hại
thực hiện quyền được bồi thường”, https://btnn.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID
=237, 04/9/2020.
5
23(327)-tháng 12/2016. Tác giả đã phân tích một số vấn đề lý luận và nêu thực
trạng bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi
danh dự cho người bị buộc tội trái pháp luật trong TTHS. Tuy nhiên tác giả chưa
phân tích cụ thể việc bồi thường đối với những người thân thích của người bị thiệt
hại trong TTHS.
Nhìn chung, tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về TNBTCNN nói chung
và TNBTCNN trong hoạt động TTHS nói riêng, trong đó đáng chú ý là nội dung
bình luận, phân tích, đề xuất về việc bồi thường thiệt hại cho người thân thích của
người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS của các tác giả Đỗ Văn Đại và Nguyễn
Trương Tín, còn lại chủ yếu tập trung nghiên cứu vào TNBTCNN nói chung hay
xác định về cơ quan thực hiện bồi thường thiệt hại (các luận văn, bài viết), hoặc giới
thiệu khái quát (các giáo trình) về TNBTCNN. Chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách chuyên sâu, đầy đủ và có hệ thống về bồi thường thiệt hại cho người thân
thích của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài nhằm nghiên cứu những quy định của Luật TNBTCNN về việc thực
hiện bồi thường thiệt hại cho người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động
TTHS. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật
hiện hành và nghiên cứu thực tiễn giải quyết bồi thường, từ đó kiến nghị, đề xuất
hướng giải quyết mang tính thuyết phục, góp phần tích cực trong việc hoàn thiện
các quy định của pháp luật trong vấn đề Luận văn đang nghiên cứu, bảo đảm cho
việc nhận thức và áp dụng chúng một cách thống nhất trong thực tiễn thực hiện bồi
thường thiệt hại đối với những tổn thất về vật chất, về tinh thần cho những người
thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS.
Tác giả hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có giá trị hữu ích nhất định
đối với thực tiễn hoạt động xây dựng, áp dụng pháp luật, đặc biệt là đối với những
người làm công tác xét xử, người thực hiện thương lượng, quyết định giải quyết bồi
thường thiệt hại để đưa ra những quyết định đúng góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các cá nhân bị thiệt hại. Ngoài ra, hoạt động nghiên cứu này giúp
nâng cao kiến thức cho bản thân, hoàn thành nhiệm vụ nghề nghiệp chuyên môn
của người cán bộ tư pháp, góp một phần công sức nhỏ bé vào việc xây dựng và phát
triển ngành nơi mình đang công tác.
6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định cụ thể của Luật TNBTCNN, đồng
thời nghiên cứu thực tiễn việc xác định những thiệt hại và thực hiện bồi thường thiệt
hại cho người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS của các cơ
quan có trách nhiệm xác định thiệt hại được bồi thường.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước (Luật số 10/2017/QH14) được Quốc hội khoá XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua
ngày 20/6/2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018, các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật và các văn bản pháp luật có liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người thi hành công vụ gây ra trước khi có Luật, từ đó xem xét, đối chiếu với thực
tiễn áp dụng pháp luật trong việc xác định thiệt hại, bồi thường thiệt cho người thân
thích của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS trong thời gian qua ở Việt Nam.
Đề tài giới hạn nghiên cứu vấn đề xác định đối tượng cụ thể, những thiệt hại, mức bồi
thường, cơ quan có trách nhiệm xác định thiệt hại đối với những tổn thất vật chất, tinh
thần cho người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS, nên vấn đề
xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường, trình tự, thủ tục giải quyết việc bồi
thường và các nội dung khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để nghiên cứu có hiệu quả đề tài, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân
tích, bình luận, so sánh, chứng minh và tổng hợp. Phương pháp phân tích, tổng hợp
được sử dụng chung cho cả luận văn; phương pháp so sánh nhằm giúp người đọc có
cách nhìn tổng quát, rõ ràng về nội dung của đề tài và các nội dung liên quan. Trong
đó phương pháp phân tích được tác giả sử dụng để phân tích các quy định của pháp
luật về nguyên tắc xác định đối tượng được bồi thường, các loại thiệt hại được bồi
thường, mức bồi thường. Tác giả áp dụng khi nghiên cứu, đánh giá pháp luật thực
định, chủ yếu sử dụng ở phần đầu của các chương 1, 2.
Phương pháp bình luận và so sánh được tác giả sử dụng song song để bình
luận thực tiễn các trường hợp giải quyết việc bồi thường cho những người thân
thích của người bị thiệt hại trong TTHS, đồng thời so sánh giữa các quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết bồi thường thiệt
hại cho những người này.
7
Phương pháp chứng minh được tác giả sử dụng chủ yếu để chứng minh các
vấn đề bất hợp lý giữa các quy định của pháp luật, cũng như những trường hợp thực
tiễn không áp dụng các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết nhưng vẫn
đảm bảo được quyền lợi của người bị thiệt hại và mang tính thuyết phục cao.
Kết thúc mỗi chương, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp,
khái quát và kết luận về kết quả nghiên cứu các vấn đề trong chương.
Bên cạnh đó, phương pháp khảo sát thực tiễn, phương pháp bình luận án...
cũng được sử dụng khi đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, bình luận các bản án
trong thực tiễn... để từ đó đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện và áp dụng thống
nhất pháp luật.
6. Dự kiến kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng
Kết quả nghiên cứu của đề tài là chỉ ra những điểm bất cập trong quy định
của pháp luật hiện hành về giải quyết việc bồi thường cho những người thân thích
của người bị thiệt hại trong TTHS, cũng như những trường hợp chưa thống nhất
trong áp dụng pháp luật khi xác định đối tượng được bồi thường, các loại thiệt hại
được bồi thường, mức bồi thường cho những người thân thích của người bị thiệt hại
trong TTHS. Thông qua đó đề xuất những ý kiến sửa đổi, bổ sung các quy định của
Luật TNBTCNN về việc thực hiện giải quyết bồi thường thiệt hại cho những người
thân thích của người bị thiệt hại trong TTHS.
7. Các vấn đề cần giải quyết
Bố cục của luận văn gồm có 02 chương:
Chương 1. Xác định người thân thích của người bị thiệt hại trong hoạt động
tố tụng hình sự được bồi thường
Chương 2. Các loại thiệt hại được bồi thường cho người thân thích của người
bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự được bồi thường
Hiện nay, trong thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại cho những người bị
“oan sai” trong hoạt động TTHS đã làm phát sinh những khó khăn, vướng mắc khi
nhiều trường hợp thương lượng yêu cầu bồi thường những thiệt hại cho cả những
người thân thích của người bị thiệt hại (hay người bị “oan sai”) trong hoạt động
TTHS, nên tác giả xây dựng luận văn có bố cục như trên để chỉ ra những bất cập và
đề xuất hướng giải quyết bất cập trong 02 nội dung trên nhằm góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật về bồi thường Nhà nước.
8
CHƯƠNG 1
XÁC ĐỊNH NGƯỜI THÂN THÍCH CỦA NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐƯỢC BỒI THƯỜNG
1.1. Cơ sở để bồi thường cho người thân thích của người bị thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự
Bồi thường nhà nước là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng mà chủ thể có trách nhiệm bồi thường là cơ quan Nhà nước
có NTHCV thực hiện hành vi trái pháp luật. Về bản chất thì quan hệ pháp luật về
bồi thường nhà nước là quan hệ dân sự và các quan hệ này được điều chỉnh bởi Luật
TNBTCNN và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Như vậy, mối quan hệ
giữa Nhà nước với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại trong việc thương lượng, giải quyết
bồi thường thiệt hại là quan hệ dân sự giữa một bên là cơ quan Nhà nước có người
gây ra thiệt hại khi thực thi công vụ với một bên là người bị thiệt hại do hành vi
thực thi công vụ gây ra.
Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền khiếu nại, tố
cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp
nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về
vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật”. Từ quy định
trên thì quyền được bồi thường là quyền được hiến định, và như vậy người bị thiệt
hại có nguyên nhân do những việc làm trái pháp luật khi thực thi nhiệm vụ của
NTHCV gây ra cũng được xem xét bồi thường.
Theo Luật TNBTCNN thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại do NTHCV gây ra trong nhiều hoạt động như quản lý
hành chính, tố tụng, thi hành án, trong đó thiệt hại cần phải bồi thường do hành vi
trái pháp luật của NTHCV gây ra trong hoạt động TTHS có ảnh hưởng, tổn thất rất
lớn không những cho người bị “oan sai” trong hoạt động TTHS mà những người
thân thích của họ cũng bị ảnh hưởng nặng nề.
Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của NTHCV gây ra
trong hoạt động TTHS là những người bị giữ, bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam, người
bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp
hành hình phạt…mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong
hoạt động TTHS xác định người này không thực hiện hành vi phạm tội, hành vi
9
không cấu thành tội phạm, không có sự việc phạm tội hoặc hết thời hạn điều tra vụ
án mà không chứng minh được người đó thực hiện tội phạm. Hay những cá nhân có
tài sản bị thiệt hại do thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý, có tài khoản bị phong
tỏa. Như vậy, cá nhân bị thiệt hại là những người bị oan và cả những người bị thiệt
hại về tài sản do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý, có tài khoản bị phong
tỏa. Cần phải hiểu rõ “người bị oan” và người bị thiệt hại là hai khái niệm không
phải hoàn toàn là một. Người bị “oan” đồng thời là người bị thiệt hại, còn người bị
thiệt hại không phải lúc nào cũng là người oan”4
.
Hãy xem một số trường hợp thực tế sau đây:
Trường hợp 1: Trong vụ ông Huỳnh Văn Nén thì ngoài bản thân ông là người
bị “oan sai” được bồi thường thì những người thân thích của ông Nén bao gồm cha,
mẹ, vợ, con của ông Nén đã được TAND tỉnh Bình Thuận chấp nhận bồi thường
một phần những thiệt hại và tổn thất cho những người này5
.
Trong việc giải quyết bồi thường vụ án oan cho ông Huỳnh Văn Nén thì
“người bị thiệt hại” được hiểu ở đây là bản thân Nén là người bị “oan sai” trong
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và những người thân của ông Nén gồm cha, mẹ,
vợ, con của ông Nén là “những người thân thích” của ông Nén cũng bị thiệt hại, ở
đây là thiệt hại về tinh thần được cơ quan giải quyết bồi thường chấp nhận.
Trường hợp 2: Trong vụ việc ông Trần Văn Thêm, tại Quyết định về việc giải
quyết bồi thường đối với ông Trần Văn Thêm với số tiền bồi thường tổng cộng là
6.700.627.500 đồng, trong đó bao gồm: - Bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh
thần: 1.130.305.000 đồng; - Bồi thường thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút,
bồi thường thiệt hại khác: 5.570.322.500 đồng. Trong số tiền bồi thường tổn thất
tinh thần có người thân thích của ông Trần Văn Thêm6
.
Trong vụ này ngoài ông Trần Văn Thêm là “người bị oan thiệt hại” còn
người thân thích của ông Thêm cũng là “người bị thiệt hại” được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền bồi thường tổn thất về tinh thần.
4 Vũ Xuân Trường (2009), “Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng các quy định của Nghị quyết số 388”,
Tạp chí kiểm sát (08), tr.32.
5 Quyết định số 01/QĐ-CA ngày 16/01/2017 của TAND tỉnh Bình Thuận về việc quyết định bồi thường đối
với ông Huỳnh Văn Nén và Biên bản thương lượng việc bồi thường thiệt hại lần thứ 7 ngày 12/01/2017 giữa
ông Huỳnh Văn Nén và TAND tỉnh Bình Thuận.
6 Quyết định số 759/QĐ-CA ngày 18/10/2017 của TAND cấp cao tại Hà Nội về bồi thường thiệt hại cho ông
Trần Văn Thêm và Biên bản làm việc ngày 06/9/2017 giữa TAND cấp cao tại Hà Nội với người đại diện theo
ủy quyền của ông Trần Văn Thêm.
10
Trường hợp 3: trong vụ việc thương lượng xem xét bồi thường cho ông Mưu
Quý Sường ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang mang án oan giết vợ. Ông Sường đã
được Công an tỉnh Bắc Giang xin lỗi công khai sau khi ông Sường qua đời. Ngày
31/3/2021, gia đình ông Sường mới được nhận tiền bồi thường số tiền 2,35 tỷ đồng.
Trong đó không có tiền bồi thường tổn thất tinh thần cho các con của ông Sường7
.
Như vậy, trong ba vụ việc cụ thể vừa dẫn ở trên thì đã thấy người bị “oan
sai” trong hoạt động TTHS là người bị thiệt hại, người thân thích của người bị oan
trong hoạt động TTHS cũng là người bị thiệt hại. Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi tại
sao cùng trong hoạt động TTHS, có người bị “oan sai” nhưng có vụ án thì người
thân thích của người bị “oan sai” được bồi thường như vụ Huỳnh Văn Nén, Trần
Văn Thêm, nhưng cũng có vụ án thì không chấp nhận bồi thường cho người thân
thích của họ?
Điều 1 của Luật TNBTCNN năm 2017 nêu: “…Thiệt hại được bồi thường;
quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại…” và đối tượng được bồi thường
được tại Điều 2 cũng quy định: “Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, thiệt hại
về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước được quy định tại Luật này” và tại Điều 3 của Luật cũng nêu
“Người bị thiệt hại là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần
do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước được quy định tại Luật này…”. Các quy định này đã xác định rất rõ phạm vi
điều chỉnh của Luật, đối tượng được bồi thường và nêu rõ nội hàm “người bị thiệt
hại” và người bị thiệt hại đáp ứng đủ điều kiện tại Điều 7 Luật TNBTCNN gồm
“Có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công
vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng quy định tại khoản 2 Điều này;
Có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước theo quy định của Luật này; Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại
thực tế và hành vi gây thiệt hại.” thì được bồi thường.
Như vậy, Luật TNBTCNN không có nội dung quy định “người bị thiệt hại”
cụ thể là những ai, có bao gồm những người thân thích bị thiệt hại gián tiếp từ thiệt
hại trực tiếp của “người bị thiệt hại” hay không. Luật cũng không quy định cụ thể
7 Danh Trọng, Thân Hoàng, “7 năm sau khi chết, người đàn ông mang án oan giết vợ được bồi thường 2,35
tỉ”, https://tuoitre.vn/7-nam-sau-khi-chet-nguoi-dan-ong-mang-an-oan-giet-vo-duoc-boi-thuong-2-35-ti-2021
0331095527663.htm, 20/8/2021.