Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Trách nhiệm của Chủ tịch nước theo hiến pháp Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LÊ TRUNG HIẾU
TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC
THEO HIẾN PHÁP VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 12 NĂM 2021
HÀ NỘI, ......
LÊ TRUNG HI
ẾU CHUYÊN NGÀNH LU
ẬT HI
ẾN PHÁP VÀ LU
ẬT HÀNH CHÍNH KHÓA 31
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC THEO
HIẾN PHÁP VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Mã số: 8380102
Người hướng dẫn khoa học: Pgs.TS. Nguyễn Cảnh Hợp
Học viên: Lê Trung Hiếu
Lớp: Cao học luật Hiến pháp – Hành chính
Khoá: 31
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 12 NĂM 2021
Thành phố Hồ Chí Minh, ......
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “Trách nhiệm của Chủ tịch nước theo Hiến pháp Việt Nam” là công
trình do chính tác giả nghiên cứu và thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
Pgs.TS Nguyễn Cảnh Hợp. Các số liệu, thông tin nêu trong luận văn là trung thực
và khách quan. Các trích dẫn có trong luận văn đều được chú thích đầy đủ và chính
xác. Các kết quả trình bày trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực, khách quan của các dữ
liệu, số liệu và các thông tin được trình bày có trong Luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2021
Tác giả luận văn
Lê Trung Hiếu
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nội dung viết tắt
BMNN Bộ máy nhà nước
CHTT Cộng hòa tổng thống
CHĐN Cộng hòa đại nghị
HTCT Hình thức chính thể
HĐNN Hội đồng Nhà nước
NTQG Nguyên thủ quốc gia
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
UBTVQH Ủy ban thường vụ Quốc hội
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ
TỊCH NƯỚC..............................................................................................................7
1.1. Người đứng đầu nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu nhà nước
trong các hình thức chính thể ..................................................................................7
1.1.1. Khái niệm người đứng đầu nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu nhà
nước ...........................................................................................................................7
1.1.2. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể quân chủ .......................................9
1.1.3. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể cộng hòa .....................................13
1.1.4. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa .........21
1.2. Vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam và khái
quát về trách nhiệm của Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp Việt Nam ......23
1.2.1. Vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam..................23
1.2.2. Khái quát về trách nhiệm của Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp Việt
Nam…........................................................................................................................26
1.2.3. Nhận xét chung về trách nhiệm của Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp Việt
Nam .........................................................................................................................37
1.3. Trách nhiệm của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 .......................39
1.3.1. Trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực lập pháp ...............................39
1.3.2. Trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực hành pháp ............................42
1.3.3. Trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp .................................43
1.3.4. Trách nhiệm của Chủ tịch nước trong một số lĩnh vực khác ..........................45
CHƯƠNG 2. HOÀN THIỆN TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY ..........................................................................................48
2.1. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta hiện nay ................48
2.1.1. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực lập pháp .............48
2.1.2. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực hành pháp...........52
2.1.3. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp ...............54
2.1.4. Thực trạng trách nhiệm của Chủ tịch nước trong một số lĩnh vực khác ........56
2.2. Nhu cầu và phương hướng hoàn thiện trách nhiệm của Chủ tịch nước ở
nước ta hiện nay ......................................................................................................59
2.2.1. Nhu cầu hoàn thiện trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta hiện nay........59
2.2.2. Phương hướng hoàn thiện trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta hiện
nay.... .........................................................................................................................61
2.3. Một số kiến nghị liên quan về trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta
hiện nay ....................................................................................................................61
2.3.1. Kiến nghị liên quan đến trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước ta hiện nay….62
2.3.2. Thực hiện mô hình Tổng Bí thư đồng thời là Chủ tịch nước ..........................74
KẾT LUẬN..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chế định nguyên thủ quốc gia là một trong những chế định phổ biến và xuất
hiện hầu hết trong tổ chức bộ máy nhà nước của tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở
nước ta chế định nguyên thủ quốc gia xuất hiện lần đầu tiên trong Hiến pháp năm
1946 với tên gọi Chủ tịch nước và được duy trì cho đến ngày nay. Tùy vào từng thời
điểm lịch sử mà vị trí, tên gọi cũng như trách nhiệm của Chủ tịch nước cũng sẽ có sự
khác biệt.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, nước ta tiến hành công cuộc đổi mới đất
nước một cách toàn diện về các mặt của đời sống xã hội và tiến hành hội nhập quốc
tế. Cho đến nay, công cuộc đổi mới đất nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
(nhiệm kỳ 2011-2016) đã chỉ ra rõ những vấn đề cơ bản của việc đổi mới bộ máy nhà
nước, trong đó có đề cập đến vấn đề đổi mới chế định Chủ tịch nước: “nghiên cứu
xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ
chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống
lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trên tinh thần kế thừa, trong Báo cáo chính trị
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (nhiệm kỳ 2021-2026) cũng nêu
ra phương hướng “xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp...” – trong đó cơ quan Chủ tịch nước với vai trò là mắt xích quan trọng trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi đáng kể đối với các
quy định có liên quan đến chế định Chủ tịch nước. Tuy nhiên qua gần 10 năm thực
hiện Hiến pháp trong bối cảnh đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế một cách sâu
rộng như hiện nay, chế định Chủ tịch nước đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Trong
Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2011-2016 của Chủ tịch nước có nêu “mặc dù Chủ tịch
nước đã có nhiều cố gắng, song trong thực tế, hoạt động quốc phòng an ninh và việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thống lĩnh đội ngũ vũ trang nhân dân vẫn còn những
vướng mắc... Trong nhiệm kỳ, trước một số vấn đề quốc kế dân sinh hệ trọng, Chủ
tịch nước chưa thực hiện quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn vấn đề mà Chủ tịch nước
xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước theo quy định
2
điều 90 của Hiến pháp”, hay “việc chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cải cách tư
pháp còn chậm; Chủ tịch nước quyết định ký kết các điều ước quốc tế nhân danh Nhà
nước về ODA mang tính hình thức vì không quản lý trực tiếp, ít nắm được cụ thể tình
hình quản lý, sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn
ODA” - Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2016-2021 của Chủ tịch nước. Ngoài ra thông
qua nghiên cứu tác giả nhận thấy rằng các quy định về vấn đề trách nhiệm của Chủ
tịch nước theo nghĩa tiêu cực, tức tính chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước trong việc
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn vẫn chưa thật sự cụ thể.
Nhận thức được vấn đề này, nhằm chỉ ra được những bất cập về quy định của
pháp luật cũng như những hoạt động thực tiễn có liên quan đến trách nhiệm của Chủ
tịch nước, qua đó đưa ra được những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa
trách nhiệm của Chủ tịch nước trong thời gian tới, tác giả chọn đề tài “Trách nhiệm
của Chủ tịch nước theo Hiến pháp Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học,
chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật hành chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định Chủ tịch nước nói chung là đề tài được khá nhiều tác giả, nhà nghiên
cứu cũng như nhiều học viên quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên đa số đều ra đời trong
khoảng thời gian Hiến pháp năm 1992 có hiệu lực. Kể từ khi Hiến pháp năm 2013 có
hiệu lực cho đến nay cũng vẫn có một số các công trình nghiên cứu, tác phẩm có liên
quan đến chế định Chủ tịch nước được ra đời tuy nhiên số lượng không nhiều. Nổi
bật có một số công trình nghiên cứu, tác phẩm như sau:
1. Luận văn thạc sĩ “Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1946 – sự kế thừa
và phát triển qua các bản Hiến pháp Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hải Châu năm
2006. Luận văn tập trung nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của chế định
nguyên thủ quốc gia, mô hình nguyên thủ quốc gia trong tổ chức bộ máy nhà nước
dân chủ hiện đại. Ngoài ra tác giả cũng có những đề cập liên quan đến hoàn cảnh ra
đời của Hiến pháp năm 1946, vị trí, vai trò cũng như các nhiệm vụ, quyền hạn của
Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946. Đề tài cũng tập trung nghiên cứu đến các
yếu tố tác động đến sự ra đời và nội dung cơ bản của các bản Hiến pháp năm 1959,
1980 và Hiến pháp năm 1992. Xuất phát từ tình hình thực tế tác giả đã nêu lên các
nhu cầu hoàn thiện, quan điểm định hướng cũng như đưa ra những kiến nghị cụ thể
để hoàn thiện chế định Chủ tịch nước, đặc biệt là tiếp thu những ưu điểm của mô hình
Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 đối với Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp
1992.
3
2. Tác phẩm “Chế định Nguyên thủ quốc gia trong các Hiến pháp Việt Nam”, TS.
Đỗ Minh Khôi, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, năm 2014. Nội dung tác phẩm tập
trung nghiên cứu về các đặc điểm của nguyên thủ quốc gia ở các hình thức chính thể
trên thế giới cũng như nghiên cứu về địa vị pháp lý, phương thức hình thành, các
nhiệm vụ, quyền hạn của nguyên thủ quốc gia trong các hình thức chính thể này.
Ngoài ra tác phẩm cũng đề cập đến những nhiệm vụ, quyền hạn của nguyên thủ quốc
gia trong Hiến pháp một số quốc gia cụ thể trên thế giới, nghiên cứu vị trí, vai trò và
các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp trong lịch sử lập
hiến ở nước ta. Trong tác phẩm này phần hoàn thiện chế định Chủ tịch nước cũng là
phần nghiên cứu trọng tâm. Tác giả đề cập các thực trạng, bất cập trong các quy định
về Chủ tịch nước, đồng thời tác giả cũng đề cập đến những chủ trương, chính sách
của Đảng lãnh đạo định hướng đổi mới chế định Chủ tịch nước. Thêm vào đó, tác giả
cũng có sự tiếp cận từ các góc độ văn hóa, truyền thống, chính trị và điều kiện hiện
tại của Việt Nam, từ đó dựa trên các phương hướng, nguyên tắc và đề xuất những giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hơn nữa chế định Chủ tịch nước ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Ngoài hai tác phẩm nêu trên, còn có một số bài báo có liên quan đến chế định
Chủ tịch nước như: “Hình thức chính thể của các nước trên thế giới”, của tác giả Vũ
Hồng Anh, đăng trên tạp chí Luật học số 4 năm 1998; “Hiến pháp mới về vị thế, vai
trò của nguyên thủ quốc gia – Chủ tịch nước”, của tác giả Cao Vũ Minh, đăng trên
tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22 năm 2011; “Mối quan hệ của thiết chế Chủ tịch
nước với các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và cấu trúc bộ máy của thiết
chế Chủ tịch nước theo Hiến pháp”, của tác giả Nguyễn Thị Doan, đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 18 năm 2014; “Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm
2013 và việc xây dựng luật về hoạt động của Chủ tịch nước”, của hai tác giả Cao Vũ
Minh và Võ Phan Lê Nguyễn, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23 năm 2014;
Cơ sở chính trị và pháp lý của việc ban hành luật về hoạt động của Chủ tịch nước,
của tác giả Cao Vũ Minh, đang trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 01 năm 2016;
“Về quy định thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân của Chủ tịch nước”, của tác giả
Nguyễn Xuân Yêm đăng trên tạp chí Tổ chức Nhà nước tháng 7 năm 2016; “Mối
quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp ở Việt Nam”, của tác giả
Phạm Thị Phương Thảo, đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 4 năm 2018 và một
số bài viết khác.
4
Nhìn chung đây đều là những nghiên cứu được đầu tư một cách kỹ lưỡng, có
tính chuyên sâu về chế định Chủ tịch nước nói chung. Tuy nhiên đa số đều phân tích,
đánh giá vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước có liên quan đến việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc một số lĩnh vực khác mà chưa
đi sâu vào việc phân tích trách nhiệm của Chủ tịch nước (bao hàm cả vấn đề phải chịu
trách nhiệm của Chủ tịch nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của
mình). Và hiện nay cũng chưa có bất kỳ một tác phẩm, công trình nghiên cứu khoa
học nào liên quan trực tiếp đến vấn đề trách nhiệm của Chủ tịch nước theo Hiến pháp
Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp hiện hành - Hiến pháp năm 2013.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của tác phẩm là nhằm làm rõ trách nhiệm của Chủ tịch
nước qua các bản Hiến pháp trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Từ đó có những kiến
nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về trách nhiệm của Chủ tịch nước ở nước
ta theo Hiến pháp hiện hành trong thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng của đề tài là
cần phải nghiên cứu một cách có hệ thống về trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia
trong các hình thức chính thể trên thế giới. Cùng với đó là trách nhiệm của nguyên
thủ quốc gia trong lịch sử lập hiến Việt Nam, đặc biệt là trong Hiến pháp hiện hành.
Từ đó chỉ ra các bất cập có trong Hiến pháp hiện hành và các văn bản pháp luật có
liên quan cũng như là các bất cập có trên thực tế. Dựa vào các lý luận và thực tiễn
vừa phân tích, tác giả đưa ra các kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hơn nữa
trách nhiệm của Chủ tịch nước theo Hiến pháp hiện hành, trên cơ sở các phương
hướng, đường lối của Đảng lãnh đạo và phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm của
Chủ tịch nước theo Hiến pháp Việt Nam. Trong đó đề tài tập trung nghiên cứu các
nội dung có liên quan đến chế định Chủ tịch nước như vị trí, vai trò, đặc biệt là các
nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thông qua các lĩnh vực lập pháp, hành pháp,
tư pháp và một số lĩnh vực khác. Đồng thời nghiên cứu về tính chịu trách nhiệm của
Chủ tịch nước thông qua các bản Hiến pháp trong lịch sử lập hiến Việt Nam, trong
đó có Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 2013.
Về phạm vi nghiên cứu, trong phạm vi luận văn này tác giả nghiên cứu một số
vấn đề lý luận và pháp lý về trách nhiệm của Chủ tịch nước ở Việt Nam thông qua
các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và đặc biệt là Hiến
5
pháp năm 2013, tác giả cũng đồng thời nghiên cứu về trách nhiệm của nguyên thủ
quốc gia trong các hình thức chính thể trên thế giới hiện nay như hình thức chính thể
quân chủ (quân chủ tuyệt đối, quân chủ nhị nguyên, quân chủ đại nghị) và hình thức
chính thể cộng hòa (cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị, cộng hòa hỗn hợp, cộng
hòa xã hội chủ nghĩa). Từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định của
Hiến pháp về trách nhiệm của Chủ tịch nước, góp phần tạo nền tảng pháp lý vững
chắc trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch nước, cũng như tính
chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện có chất lượng các mục tiêu và nhiệm vụ nói trên, đề tài vận dụng
những phương pháp đặc thù của ngành luật nói riêng và khoa học xã hội nói chung.
Cụ thể đề tài đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: phương pháp này được sử dụng phổ biến trong
chương 1 của luận văn. Trong đó tập trung phân tích một cách có hệ thống về trách
nhiệm của Chủ tịch nước thông qua các bản Hiến pháp trong lịch sử lập hiến ở nước
ta, nhằm cho thấy sự phát triển của chế định nguyên thủ quốc gia, sự kế thừa và phát
huy những ưu điểm, khắc phục những mặt hạn chế của từng mô hình nguyên thủ quốc
gia có trong lịch sử lập hiến ở nước ta.
Phương pháp nghiên cứu so sánh: phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong
chương 1 của luận văn. Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống về trách nhiệm của
nguyên thủ quốc gia trong các hình thức chính thể trên thế giới từ đó làm nổi bật lên
những sự tương đồng và khác biệt giữa trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia ở Việt
Nam so với trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia trong các hình thức chính thể khác
trên thế giới.
Ngoài ra trong xuyên suốt luận văn tác giả cũng sử dụng một số phương pháp
khác như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp kết hợp giữa
lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ hơn về các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm của
Chủ tịch nước.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Với tình hình nghiên cứu như hiện nay, chỉ riêng Việt Nam cũng đã có nhiều đề
tài nghiên cứu, sách chuyên khảo và nhiều bài báo khoa học đề cập đến chế định Chủ
tịch nước. Tuy nhiên tác giả cũng nhận thấy rằng hầu hết các tác phẩm nói trên đều
chủ yếu nghiên cứu về vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước hoặc
về các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành
6
pháp, tư pháp chứ chưa có bất kỳ một tác phẩm nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề
trách nhiệm của Chủ tịch nước (bao gồm cả vấn đề chịu trách nhiệm của Chủ tịch
nước có liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn).
Đặt trong bối cảnh như trên, luận văn của tác giả sẽ cung cấp thêm những kiến
thức lý luận và thực tiễn của nước ta về vấn đề trách nhiệm của Chủ tịch nước. Đối
với phần lý luận, đề tài đã tổng hợp và phân tích một cách hệ thống những kiến thức
lý luận cũng như pháp lý đã có liên quan đến trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia
trong các hình thức chính thể trên thế giới và trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia
trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Về phần thực tiễn, tác giả phân tích cụ thể trách
nhiệm của Chủ tịch nước bao gồm trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp
và một số lĩnh vực khác cũng như vấn đề trách nhiệm của Chủ tịch nước với nghĩa
tiêu cực, từ đó có những đề xuất cụ thể để hoàn thiện hơn nữa các quy định có liên
quan đến trách nhiệm của Chủ tịch nước trong Hiến pháp hiện hành. Cuối cùng, có
thể nói đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho các bạn sinh viên, học viên
ngành luật nói chung và chuyên ngành Hành chính – Hiến pháp nói riêng khi nghiên
cứu các vấn đề có liên quan đến Chủ tịch nước nói chung và trách nhiệm của Chủ
tịch nước nói riêng.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC
1.1. Người đứng đầu nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu nhà nước
trong các hình thức chính thể
1.1.1. Khái niệm người đứng đầu nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu nhà
nước
Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới đều có một thiết chế, chức danh
đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước thực hiện các công tác đối nội, đối ngoại. Vị
trí này được gọi chung là nguyên thủ quốc gia (NTQG). Trong tiếng Anh thuật ngữ
phổ biến được sử dụng chung để chỉ vị trí này là “Head of State”. Theo từ điển
Oxford thuật ngữ “Head of State” được hiểu là trưởng đại diện công cao nhất của
một quốc gia như Tổng thống hoặc Quốc vương, người có thể đứng đầu Chính phủ.
Hay là người đại diện chung cho sự thống nhất quốc gia và tính hợp pháp của một
nhà nước có chủ quyền1
.
Theo nghĩa Hán – Việt, nguyên thủ là người đứng đầu2
. NTQG cũng có nghĩa
là người đứng đầu của một quốc gia. Cách hiểu này cũng tương tự với định nghĩa có
trong từ điển luật học về NTQG theo đó “nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu nhà
nước để đại diện cho nhà nước ấy về cả đối nội và đối ngoại”
3
. Theo PGS.TS luật
học Nguyễn Đăng Dung định nghĩa về NTQG trong quyển Tìm hiểu pháp luật – Luật
Hiến pháp so sánh NTQG là “người đứng đầu nhà nước, có quyền thay mặt nhà nước
về mặt đối nội và đối ngoại”. Như vậy tóm lại, người đứng đầu nhà nước cũng chính
là nguyên thủ quốc gia đại diện cho nhà nước về đối nội và đối ngoại .
Trong tiếng Anh, có hai thuật ngữ cùng được hiểu theo nghĩa trách nhiệm đó là:
“responsibility” và “accountability”. Hai thuật ngữ này thường được dùng để thay
thế cho nhau nhưng vẫn có một sự khác biệt cơ bản giữa hai thuật ngữ này. Trách
nhiệm với nghĩa là “responsibility” thường được hiểu là việc phải làm như là bổn
phận, nghĩa vụ. Còn “accountability” có nghĩa rộng hơn “responsibility”, không chỉ
là những việc phải làm mà còn bao gồm việc đứng ra nhận và chịu trách nhiệm về kết
quả thực hiện những việc đó. “Accountability”có thể được hiểu là tổng hợp của trách
1 Tham khảo tại trang https://en.wikipedia.org/wiki/Head_of_state, truy cập ngày 26/03/2021.
2 Hoàng phê chủ biên (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 694.
3 Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa – Nxb Tư pháp, tr.570.
8
nhiệm (responsibility), khả năng biện minh (answerability) và nghĩa vụ pháp lý
(liability) 4
.
Ở Việt Nam, một số tác giả tiếp cận thuật ngữ trách nhiệm theo nghĩa “trách
nhiệm là sự thực hiện bổn phận, nghĩa vụ của chủ thể đối với người khác, với xã hội
một cách tự giác”. Một số tác giả khác lại cho rằng trách nhiệm có nghĩa là “chịu
trách nhiệm”, với hàm ý là phải gánh chịu một hậu quả bất lợi nào đó: “trách nhiệm
là hậu quả bất lợi mà người đứng đầu phải gánh chịu khi không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng quyền, nghĩa vụ được giao”
5
.
Có thể thấy chỉ với một thuật ngữ trách nhiệm nhưng lại có nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Sẽ hợp lý hơn nếu nhìn nhận thuật ngữ trách nhiệm theo hướng kết hợp
cả hai cách hiểu trên đây lại với nhau. Trách nhiệm là những việc nên làm, phải làm,
được làm với kết quả tốt, nếu kết quả không tốt sẽ phải gánh chịu phần hậu quả bất
lợi tương xứng vơi tính chất, mức độ của việc không hoàn thành bổn phận, nghĩa vụ
6
.
Trên cơ sở những phân tích về thuật ngữ trách nhiệm và thuật ngữ NTQG có thể
hiểu “trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia là những việc mà người đứng đầu nhà
nước nên làm, phải làm, được làm với kết quả tốt nhất. Nếu kết quả không tốt,
người đứng đầu nhà nước sẽ phải gánh chịu hậu quả bất lợi”. Trên cơ sở khái niệm
này, có thể thấy trách nhiệm của NTQG được cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản đó là:
quyền hạn, nghĩa vụ và hệ quả của việc thực hiện các quyền hạn và nghĩa vụ đó
(tính chịu trách nhiệm). Ở đây cũng cần phải lưu ý, có một số người sẽ không gọi là
trách nhiệm mà dùng thuật ngữ “thẩm quyền”, tuy nhiên cũng cần phải hiểu thẩm
quyền chỉ tức là quyền hạn và nghĩa vụ, nó không bao hàm vấn đề chịu trách nhiệm.
Do đó cần phải có sự phân biệt giữa thuật ngữ thẩm quyền và thuật ngữ trách nhiệm,
bởi lẽ trách nhiệm không chỉ bao gồm quyền hạn và nghĩa vụ mà còn bao gồm cả về
vấn đề gánh chịu hậu quả bất lợi khi có sai phạm.
Tùy thuộc vào từng hình thức chính thể (HTCT) mà tên gọi của NTQG cũng có
sự khác nhau. Ở những quốc gia theo chính thể quân chủ, NTQG thường được gọi là:
nhà Vua, Hoàng đế, Nữ hoàng hay Quốc trưởng…. Ở những quốc gia theo chính thể
4 Bùi Thị Ngọc Mai (2015), “Thuật ngữ “trách nhiệm” và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17 (297), tr. 8.
5 Nguyễn Minh Phú (2018), “Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 8 (360), tr. 3.
6 Bùi Thị Ngọc Mai (2016), Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, Nxb Chính trị
Quốc gia – Sự thật, tr. 26.
9
cộng hòa trong các nhà nước dân chủ tư sản, NTQG thường được gọi là Tổng thống…
Đối với các quốc gia theo chính thể cộng hòa Xô viết hay cộng hòa dân chủ nhân dân,
cộng hòa xã hội chủ nghĩa NTQG thường được gọi là Chủ tịch nước, Đoàn chủ tịch
Xô viết tối cao hoặc Hội đồng Nhà nước (HĐNN)…
1.1.2. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể quân chủ
HTCT là phương thức tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước Trung
ương. Nói cách khác, HTCT là phương pháp thành lập và mối quan hệ giữa người
đứng đầu nhà nước, Nghị viện và Chính phủ
7
. HTCT gồm có hai dạng cơ bản là
HTCT quân chủ và HTCT cộng hòa.
Nếu quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hoặc một phần vào trong
tay của người đứng đầu nhà nước như nhà Vua, Hoàng đế hay Quốc vương… và được
chuyển giao theo nguyên tắc thừa kế, thời hạn nắm giữ quyền lực là trọn đời thì đó là
chính thể quân chủ. HTCT quân chủ được chia thành hai hình thức là quân chủ chuyên
chế (quân chủ tuyệt đối) và quân chủ hạn chế (quân chủ lập hiến). Trong hình thức
quân chủ hạn chế lại được chia thành hai hình thức là quân chủ nhị nguyên (quân chủ
nhị hợp) và quân chủ đại nghị.
1.1.2.1. Người đứng đầu nhà nước trong chính thể quân chủ chuyên chế (quân chủ
tuyệt đối)
Trong chính thể này, nhà Vua là người có quyền lực tối cao trong toàn bộ vương
quốc, nắm trong tay toàn bộ quyền lực nhà nước và không bị giới hạn bởi bất cứ điều
gì. Hiến pháp ở các vương quốc này vẫn có các quy định về quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp cùng với các cơ quan đảm trách nhưng tất cả đều đóng vai trò xoay
quanh và phục vụ cho sự cai trị của nhà Vua. Trong chính thể này nhà Vua có các
nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
Trong lĩnh vực lập pháp, nhà Vua là người nắm toàn bộ quyền lập pháp trong
tay. Tuy nhiên nhà Vua không tự mình xây dựng nên các đạo luật mà sẽ thành lập
nên các cơ quan đóng vai trò như cơ quan lập pháp ở các quốc gia (Hội đồng lập pháp
của Vương quốc Brunei, Hội đồng tư vấn ở Ả-rập Xê-út). Nhà Vua có toàn quyền bổ
nhiệm hay cách chức các thành viên của Hội đồng theo sự xét đoán của mình. Một
dự luật được xây dựng và hoàn thiện ở Hội đồng sẽ được trình lên cho nhà Vua ban
hành. Nhà Vua là người quyết định cuối cùng trong việc ban hành cũng như nội dung
của dự luật. Ngoài ra nhà Vua còn là người có thẩm quyền tuyên bố tình trạng khẩn
7 Vũ Hồng Anh (1998), “Hình thức chính thể của các nước trên thế giới”, Tạp chí Luật học, số 4, tr. 40.