Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý khai thác bảo hiểm nhân thọ tại công ty bảo hiểm nhân thọ nghệ
MIỄN PHÍ
Số trang
86
Kích thước
449.9 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
896

tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý khai thác bảo hiểm nhân thọ tại công ty bảo hiểm nhân thọ nghệ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

LỜI MỞ ĐẦU

Bảo hiểm nhân thọ là nghiệp vụ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế

quốc dân. Cũng như ngành bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ

noi riêng không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà điều quan

trọng là góp phần ổn định tài chính cho các cá nhân , gia đình cho mọi tổ chức,

doanh nghiệp để phục vụ đợi sống và hoạt động sản xuất kinh doanh . Mặc dù ở

Việt Nam nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ mới triển khai vào năm 1996 nhưng đén

nay bảo hiểm nhân thọ không còn xa lạ mà đã len lỏi đến mọi làng quê , cơ quan

doanh nghiệp thâm nhập vào hoạt động đời sống kinh tế xã hội .

Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước các ngành các lĩnh vực

hoạt động đều có đóng góp nhất định . Luôn cải tiến đểvươn tới sự hoàn thiện

Bảo hiểm nhân thọ cũng không nằm ngoài quy luật đó .Một công việc quan

trọng và không thể thiếu trong sự hoàn thiện đó là công tác tổ chức và quản lý

mạng lưới đại lý khai thác bảo hiểm nhân thọ .

Tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý khai thác bảo hiểm nhân thọ là công

việc quan trọng quyết định tới hiệu quả kinh doanh của công ty trên thị trường .

Đặc biệt trong điều kiện hiện nay có sự góp mặt của công ty bảo hiểm nước

ngoài do đó công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý khai thác luôn phải

được hoàn thiện . Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài “Tổ chức và quản lý

mạng lưới đại lý khai thác bảo hiểm nhân thọ tại công ty bảo hiểm nhân thọ

Nghệ An” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp tại công ty bảo hiểm nhân thọ

Nghệ An

Mục đích của đề tài nhằm :

1.Làm rõ sự cần thiết công tác tổ chức , mạng lưới đại lý khai thác bảo

hiểm nhân thọ

2. Trình bày nội dung cơ bản về công tác tổ chức , quản lý mạng lưới đại

lý khai thác bảo hiểm nhân thọ

1

3. Phân tích công tác tổ chức quản lý mạng lưới đại lý khai thác tai công

ty bảo hiểm nhân thọ Nghệ An từ đó rút ra nhận xét và có những kiến nghị nhằm

hoàn thiện công tác đó

Để thực hiện được mục tiêu này . Kết cấu của đề tài được chia làm 3

phần.

Phần 1 : Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ và đại lý bảo hiểm nhân

thọ

Phần 2 : Thực trạng về công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý tại

công ty bảo hiểm nhân thọ Nghệ An

Phần 3 : Phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác tổ

chức và quản lý mạng lưới đại lý khai thác ở công ty bảo hiểm nhân thọ Nghệ

An

2

CHƯƠNGI

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ ĐẠI LÝ BẢO

HIỂM NHÂN THỌ

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ

1. Lịch sử ra đời và vai trò của bảo hiểm nhân thọ

1.1. Lịch sử phát triển của bảo hiểm nhân thọ .

Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia

bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia bảo hiểm

( Hoặc người hưởng quyền lợi bảo hiểm ) một số tiền nhất định khi có sự kiện

đã định trước xảy ra ( người đựoc bảo hiểm bị chết hoặc sống đến thời điểm

nhất định. Còn người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng

thời hạn.Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1585 do

công dân Luân đôn là ông William Gybbon tham gia. Phí bảo hiểm lúc đó ông

phải đóng là 32 bảng anh, khi ông chết trong năm đó người thừa kế của ông

được hưởng 400 bảng Anh.

Năm 1759 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở Philadephia( Mỹ)

công ty này đến nay vẫn hoạt động nhưng lúc đầu nó chỉ bảo hiểm cho các con

chiên ở trong nhà thờ của mình. Năm 1762 công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable

ở nước Anh ra đời và bán bảo hiểm nhân thọ cho mọi người dân. Ở châu Á công

ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm

Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1889 hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra

đời và phát triển cho đến nay. Hiện nay trên thế giới bảo hiểm nhân thọ là loại

hình phát triển nhất. Năm 1985 doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ mới chỉ đạt

630,5 tỷ đôla năm 1989 đã lên tới 1.221,2 tỷ đôla và năm 1993 con số này là

1.647 tỷ đôla.

Hiện nay có năm thị trường bảo hiểm nhân thọ lớn nhất thế giới là Mỹ,

Nhật Bản, Cộng hoà liên bang Đức, Anh và Pháp. Theo số liệu thống kê năm

1993 phí bảo hiểm nhân thọ của năm thị trường này được thể hiện ở bảng sau:

3

Bảng1: Cơ cấu phí bảo hiểm nhân thọ của 5 thị trường lớn nhất thế giới

năm 1993

Chỉ tiêu

Tên nước

Tổng doanh thu

phí bảo hiểm nhân

thọ(triệu $)

Cơ câu phí BHNT (%)

Nhân thọ Phi nhân thọ

Mỹ

Nhật

Đức

Anh

Pháp

522,468

320,143

107,433

102,360

84,303

41,44

73,86

39,38

64,57

56,55

58,56

26,14

60,62

35,43

43,65

Nguồn : “Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam tháng 8 năm 1996”.

Ở Việt Nam bảo hiểm nhân thọ có thể được coi như xuất hiện từ thời

Pháp thuộc, ở miền bắc khi những viên chức làm việc cho Pháp được bảo hiểm

và một số gia đình được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Các hợp đồng này đều do

công ty bảo hiểm của pháp thực hiện.

Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 đã có công ty bảo hiểm Hưng Việt

triển khai một số loại hình bảo hiểm như trường sinh an sinh giáo dục. Nhưng

công ty này chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn từ một đến hai năm cho nên

người dân chưa biết nhiều về loại hình bảo hiểm này.

Khi kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa có sự quản lý nhà nước. Năm 1987 Bảo Việt đã tổ chức nghiên cứu đề tài

“ Lý thuyết về bảo hiểm nhân thọ và sự vận dụng vào thực tế tại Việt nam”. Đã

được Bộ tài chính công nhận là đề tài cấp bộ. Đề tài đã đi sâu nghiên cứu tình

hình triển khai bảo hiểm nhân thọ trên thế giới và thực tế tại Việt Nam. Với điều

kiện thức tế của nước ta lúc đó ý nghĩa thực tế của đề tài mới chỉ dừng lại ở mức

độ triển khai bảo hiểm sinh mạng cá nhân thời hạn một năm, tuy nhiên qua thực

tế thí điểm triển khai các sản phẩm này ít có tính hấp dẫn nhưng do đầu những

năm 1990 kinh tế đất nước đã có bước tăng trưởng đáng kể. Do đó, ngày

20/3/1996 Bộ tài chính dã ký quyết định cho phép Bảo Việt triển khai hai loại

hình bảo hiểm nhân thọ đầu tiên là: bảo hiểm nhân thọ thời hạn 5 năm, 10 năm

và bảo hiểm trẻ em. Ngày 22/6/1996 Bộ tài chính ký quyết định số

568/QĐ/TCCB cho phép thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ trực thuộc Bảo

4

Việt. Đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển của ngành bảo

hiểm Việt Nam.

Trải qua gần 7 năm hoạt động đến nay bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã

ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng của mình đối với người tham gia

bảo hiểm, đối với đất nước.

1.2. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ

1.2.1. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ đối với người tham gia bảo hiểm.

a.Đối với cá nhân, gia đình.

*Đối với cá nhân : khi tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ giúp họ yên tâm

trong cuộc sống ổn định khả năng tài chính khi có sự kiện rủi ro xảy ra, giảm sự

phụ thuộc vào người thân bè bạn. Tạo điều kiện cho họ thực hiện được một loạt

các nghĩa vụ, trách nhiệm đối với người thân.

* Đối với gia đình :Tham gia bảo hiểm nhân thọ thể hiện sự quan tâm lo

lắng của người chủ gia đình đối với người phụ thuộc. Góp phần tạo nếp sống

tiếp kiệm, lành mạnh thể hiện sự quan tâm lẫn nhau giữa mọi người. Tham gia

BHNT là một biện pháp tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch đối với từng gia

đình. Đáp ứng nhu cầu tài chính trong tương lai như quỹ giáo dục cho con cái,

cưới hỏi, lập nghiệp..... Không những thế khi tham gia bảo hiểm với số tiền lớn

người ta có thể dùng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ để làm vật thế chấp vay tiền

của ngân hàng, vay qua hợp đồng tại công ty bảo hiểm mà khách hàng tham gia.

b.Đối với cơ quan doanh nghiệp.

Tham gia bảo hiểm sẽ góp phần ổn định tài chinh, ổn định sản xuất kinh

doanh cho các cơ quan doanh nghiệp tạo lập mối quan hệ gần gũi gắn bó giữa

người lao động và người sử dụng lao động. Giúp họ giữ chân được nhưng lao

động chủ chốt.

1.2.2. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ đối với xã hội

a. Chăm sóc y tế.

Ở các nước trên thế giới khi tham gia bảo hiểm người tham gia bảo hiểm phải

trải qua một cuộc kiểm tra sức khoẻ tại các trung tâm y tế do công ty bảo hiểm

nhân thọ chỉ định. Do đó tham gia bảo hiểm nhân thọ là một cơ hội kiểm tra

sức khoẻ của bản thân, mặt khác khi người tham bảo hiểm gặp một số rủi ro như

ốm đau tai nạn, công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ trả cho họ một số tiền nhằm hồi

phục sức khoẻ nhanh.

5

b. Giáo dục

Đây là một lĩnh vực thu hút được sự quan tâm của hầu hết của các quốc

gia trên thế giới. Đặc biệt đối với Việt Nam đây là vấn đề mang tính then chốt

cho sự phát triển lâu bền của đất nước. Sản phẩm bảo hiểm an sinh giáo dục là

một giải pháp huy động vốn dài hạn để đầu tư cho giáo dục tư việc tiết kiệm

thường xuyên của mỗi gia đình. Đây là một giải pháp đúng đắn góp phần thực

hiên mục tiên công bằng xã hội.

c. Vấn đề việc làm

Bảo hiểm nhân thọ đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết công ăn

việc làm. Bảo hiểm nhân thọ là ngành có cần mạng lưới đại lý rộng khắp, cần

có một lực lượng lao động lớn. Chẳng hạn công ty Manulife đã tuyển hơn 8

nghìn lao động ở châu Á, ở Mỹ năm 2000 là 2,5 triệu người, ở Đài Loan với dân

số 21 triệu người thì có tới 1% dân số làm việc trong ngành bảo hiểm. Ở Việt

Nam tính đến hết năm 1999 số lượng đại lý là 4984.

d. Vấn đề người về hưu và người cao tuổi

Tuổi thọ con người ngày một nâng cao, ở Việt Nam tuổi thọ bình quân là

65. Kinh tế xã hội ngày càng phát triển tỷ lệ người tham gia ngày càng cao do

nhu cầu chăm sóc người già ngày càng lớn. Hơn nữa tuổi càng cao thì họ càng lo

lắng cho tương lai của mình sau khi về hưu. Vì vậy tham gia bảo hiểm nhân thọ

chính là một giải pháp để giảm bớt nỗi âu lo đó, đặc biệt là sản phẩm niên kim

nhân thọ. Phần giảm bớt gánh nặng của xã hội đối với người cao tuổi tránh sự

phụ thuộc vào con cái. Như vậy bảo hiểm nhân thọ là biện pháp tốt để hỗ trợ

cho nhà nước trong việc đảm bảo cuộc sống cho người cao tuổi, giảm chi quỹ

phúc lợi xã hội

e. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ đối với phát triển kinh tế.

Bảo hiểm nhân thọ góp phần tăng tích luỹ, tiết kiệm cho ngân sách. Mỗi

cá nhân mua bảo hiểm là cách tự bảo vệ mình đồng thời còn tạo ra một quỹ tiết

kiệm, thu hút huy động những số tiền nhỏ từ các cá nhân nhằm hình thành quỹ

bảo hiểm tập trung để đầu tư vào nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Ở Đài Loan

hàng năm bảo hiểm đầu tư vào nền kinh tế khoảng 500- 800 triệu đôla, tổng đầu

tư của công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ vào nền kinh tế năm 1990 là1.408 tỷ đôla,

năm 1991 là 1.551 tỷ đôla, năm 1994 là 1.997 tỷ đôla.

6

2. Đặc điểm và các loại hình bảo hiểm nhân thọ

2.1. Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ

a. Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.

Tính tiết kiệm bảo hiểm nhân thọ thể hiện ngay trong từng cá nhân, từng

gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và kỷ luật. Người tham gia bảo

hiểm sẽ có hai phương thức nộp phí là nộp một lần và nộp định kỳ, nhưng do

thời hạn bảo hiểm thường dài. Do đó, người tham gia thường nộp phí định kỳ.

Nhưng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì người được hưởng quyền lợi bảo hiểm

sẽ nhận được một khoản tiền lớn hơn rất nhiều.

b. Đáp ứng được nhiêu mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm

Trong khi bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là góp

phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp rủi ro, góp phần

ổn định tài chính cho người tham gia bảo hiểm thì bảo hiểm nhân thọ đáp ứng

được nhiều mục đích hơn mỗi mục đích đều thể hiện trong từng loại hợp đồng.

Chẳng hạn bảo hiểm hưu trí sẽ góp phần ổn định cuộc sống người già, bảo hiểm

tử vong sẽ giúp người đựoc bảo hiểm để lại một số tiền cho gia đình khi họ bị tử

vong...... Ngoài ra hợp đông bảo hiểm nhân thọ còn là một tính chất giúp khách

hàng vay vốn, tiết kiệm tạo lập quỹ giáo dục con cái.....

c. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp

Tính đa dạng và phức tạp của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được thể hiện

ngay ở các sản phẩm của nó. Mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều

loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn sản phẩm bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có

các loại hợp đồng 5 năm, 10 năm, mỗi loại hợp đồng có thời hạn khác nhau số

tiền bảo hiểm, hay cách thức đóng phí, độ tuổi của người được bảo hiểm. Thậm

chí trong một hợp đồng mỗi quan hệ giữa các bên cũng rất phức tạp.....Tất cả

những yếu tố đó đã tạo nên sự đa dạng và phức tạp của hợp đồng bảo hiểm nhân

thọ

d. Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động của nhiều yếu tố vì vậy quá trình định

phí bảo hiểm nhân thọ là rất phức tạp

Bảo hiểm nhân thọ thường có thời hạn dài tình hình kinh tế nói chung

luôn biến động, cho nên khi xác định phí bảo hiểm nhân thọ người ta phải dựa

vào một sồ giả định nào đó chảng hạn :

- Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm

7

-Tuổi thọ bình quân của con người

- Thời hạn tham gia

- Số tiền bảo hiểm

- Phương thức thanh toán

- Lãi suất đầu tư

-Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền

..............

g. Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế

xã hội nhất định.

Có những nước bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển hàng trăm năm

nay, nhưng có những nước hiện nay vẫn chưa triển khai được nghiệp vụ bảo

hiểm nhân thọ Mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò lợi ích của bảo hiểm nhân thọ.

Để lý giải điều này hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng bảo hiểm nhân thọ gắn

liền với điều kiện kinh tế xã hôị nhất định như :

*Các điều kiện kinh tế.

- Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế cao, ổn định

- Mức thu nhập của người dân tương đối cao

- Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền

- Tỷ giá hối đoái

.....................

* Các điều kiện xã hội ;

- Điều kiện về dân số

- Tuổi thọ bình quân của người dân

- Trình độ học vấn

- Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh

-........

Để thấy được những đặc điểm cơ bản của bảo hiểm nhân thọ ta hãy so

sánh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm con người phi nhân thọ ở các phạm vi sau:

8

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!