Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định
PREMIUM
Số trang
168
Kích thước
997.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1138

Tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

Nghiên cứu sinh: Hoàng Quý Châu

TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Địa lí học

Mã số : 62.31.95.01

Người hướng dẫn:

PGS.TS. Nguyễn Minh Tuệ

PGS.TS. Nguyễn Văn Phú

2011

2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Bất kì một phạm vi không gian nào trên lãnh thổ nước ta cũng như trên

thế giới đều có những điều kiện khác nhau về tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội.

Sự phân hoá theo lãnh thổ về tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội là một tất yếu

khách quan. Bởi vậy, tổ chức theo lãnh thổ là một yêu cầu khách quan nếu muốn

khai thác lãnh thổ một cách hợp lí và có hiệu quả cao.

Tổ chức lãnh thổ là một trong những biểu hiện gắn kết các hoạt động

kinh tế nhằm đảm bảo cho việc khai thác các tiềm năng và lợi thế ngày càng tốt

hơn, góp phần đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế của địa phương. Đồng thời, tạo

nên mối liên kết giữa các khu vực hành chính, tự nhiên khác nhau trong cùng

một địa phương cũng như giữa các địa phương với nhau. Nguyên tắc cao nhất

của TCLT là đảm bảo phát triển hài hoà, nhịp nhàng, hiệu quả và bền vững cả

trước mắt và lâu dài của vùng lãnh thổ. Lựa chọn các hình thức TCLT thích

hợp đối với mỗi lãnh thổ là công việc khó khăn và phức tạp, mang tính nghệ

thuật dẫn đến thành công trong các quá trình phát triển. Trong thời gian qua,

mỗi địa phương ở các vùng, miền khác nhau ở nước ta việc phát triển các hình

thức TCLTKT hết sức đa dạng.

Tỉnh Bình Định nằm trong vùng kinh tế Duyên hải Nam Trung Bộ và thuộc

địa bàn kinh tế trọng điểm miền Trung. Trong thời gian gần đây, các hoạt động kinh

tế ở địa phương này đã có những bước phát triển đáng kể. Mỗi ngành kinh tế nơi

đây đã dần dần sử dụng có hiệu quả những đặc trưng mang tính lãnh thổ, hoặc có sự

tương tác qua lại, tạo nên mối liên kết nội vùng và ngoại vùng.

Việc nghiên cứu về TCLTKT tỉnh Bình Định sẽ có ý nghĩa rất lớn trong

việc sắp xếp, bố trí các hoạt động kinh tế dựa trên cơ sở sử dụng có hiệu quả

nhất sự phân bố khác nhau theo lãnh thổ các điều kiện tự nhiên, dân cư, kinh tế,

xã hội ở địa phương. Đồng thời, thấy được mối liên hệ mật thiết của các hình

3

thức TCLTKT đảm bảo cho việc khai thác lãnh thổ ngày càng bền vững; sớm

đưa Bình Định trở thành một trong những cực kinh tế phát triển mạnh trong khu

vực miền Trung và Tây Nguyên theo Nghị quyết mà Đại hội tỉnh Đảng bộ lần

thứ XVIII đề ra.

Từ những lí do trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Tổ chức lãnh thổ

kinh tế tỉnh Bình Định” làm đề tài luận án tiến sĩ.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1 Mục tiêu

Vận dụng và làm sáng tỏ cơ sở lí luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ kinh

tế để phân tích, đánh giá về thực trạng TCLTKT tỉnh Bình Định. Từ đó, đề xuất các

giải pháp về TCLTKT tỉnh Bình Định trong tương lai.

2.2 Nhiệm vụ

- Tổng quan có chọn lọc những vấn đề lí luận và thực tiễn cơ bản về

TCLTKT, từ đó vận dụng vào việc nghiên cứu TCLTKT trên địa bàn một địa

phương cụ thể ở nước ta.

- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của các nhân tố ảnh hưởng đến

TCLTKT của tỉnh Bình Định và thực trạng phát triển kinh tế tỉnh Bình Định.

- Phân tích thực trạng TCLT theo ngành kinh tế và theo không gian ở

tỉnh Bình Định.

- Xác định cơ sở và định hướng TCLTKT tỉnh Bình Định đến năm 2015,

tầm nhìn đến năm 2020 và đề xuất các giải pháp TCLTKT tỉnh Bình Định có

hiệu quả và bền vững.

3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

3.1. Nội dung

Tập trung phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến TCLTKT tỉnh

Bình Định. Đồng thời, vận dụng các lí thuyết TCLTKT nhằm bước đầu phát

hiện một số hình thức TCLTKT tỉnh Bình Định theo ngành và theo không gian.

4

- TCLT theo ngành kinh tế: TCLTNN: trang trại, vùng chuyên canh (lúa,

mía, mì, dừa và thủy sản); TCLTCN: điểm công nghiệp, khu công nghiệp,

cụm công nghiệp, trung tâm công nghiệp; TCLTDL: điểm du lịch, khu du

lịch, trung tâm du lịch.

- TCLTKT theo không gian: đô thị, KKT Nhơn Hội, HLKT quốc lộ 19 và

tiểu vùng kinh tế.

Việc phân tích, phát hiện vấn đề chủ yếu trên góc độ định tính. Luận án

không đi sâu phân tích các vấn đề mang tính chiến lược và quy hoạch. Trong quá

trình nghiên cứu tác giả vẫn đặt các hình thức TCLTKT trong mối quan hệ với

một số các yếu tố KT - XH và sự quản lí của chính quyền địa phương.

3.2. Lãnh thổ

Nghiên cứu toàn bộ phạm vi lãnh thổ tỉnh Bình Định, lấy ranh giới cấp

huyện để phân tích một số hình thức có ý nghĩa quan trọng đối với TCLTKT

tỉnh Bình Định và đặt lãnh thổ nghiên cứu trong mối quan hệ với vùng kinh tế

trọng điểm miền Trung.

3.3. Thời gian

Luận án sử dụng nguồn số liệu giai đoạn 2000 - 2008 và tầm nhìn đến

năm 2020.

4. Lịch sử nghiên cứu

4.1. Trên thế giới

Nền móng của việc nghiên cứu, tìm ra tính quy luật về không gian lãnh

thổ của các hoạt động kinh tế ra đời từ giữa thế kỉ XIX và đã trở thành một

khoa học quản lý lãnh thổ. TCLT có liên quan rất chặt chẽ với kết quả nghiên

cứu của các nhà khoa học trên thế giới về việc tìm ra các quy luật TCLT ở

một địa phương cụ thể, từ đó tiến hành xem xét về việc bố trí một cách hợp lí

các hoạt động kinh tế và các điểm dân cư. Đáng chú ý nhất, đó là công trình

5

nghiên cứu về lí thuyết phát triển không gian của các nhà khoa học ở các

nước Phương Tây.

Lý thuyết vành đai nông nghiệp của V.Thunen - 1883 [66]: thành phố

trung tâm là đối tượng có sức hấp dẫn đối với các hoạt động nông nghiệp xung

quanh. Ý nghĩa quan trọng của lí thuyết này là việc xác định vai trò của một

trung tâm và thiết lập các vành đai nông nghiệp tối ưu.

Lí thuyết luận vi công nghiệp của A.Weber [66]: giải thích sự tập trung

công nghiệp ở một địa phương là do 3 nguyên nhân: chi phí vận tải rẽ nhất; chi

phí về nhân công rẽ nhất; nơi xí nghiệp tập trung để có thể sử dụng phế liệu làm

nguyên liệu rẽ tiền. Đồng thời, có thể coi thành phố, các cửa Vào - Ra như cảng

biển, sân bay, các đầu mối giao thông khác là những nút trọng điểm của lãnh thổ.

Sức lan tỏa của chúng có ảnh hưởng rất lớn tới các vành đai sản xuất nông

nghiệp với chức năng khác nhau nhưng đều phục vụ cho thành phố trung tâm. Ý

nghĩa của lí thuyết này là xác định vai trò của điểm “trồi” ở những khu vực mà

kinh tế còn kém phát triển.

Lý thuyết "điểm trung tâm" của W.Christaller - 1903 [66]: một vùng

không thể phát triển nếu không có trung tâm hạt nhân, giữ vai trò đầu tàu lôi kéo

sự phát triển của cả lãnh thổ. Thành phố được xem như là những cực hút, hạt

nhân của sự phát triển, là các đối tượng đầu tư có trọng điểm trên cơ sở nghiên

cứu mức độ thu hút và mức độ ảnh hưởng của chúng đến các vùng xung quanh

thông qua bán kính vùng tiêu thụ sản phẩm. Ý nghĩa của lí thuyết này là cơ sở để

bố trí các điểm đô thị, các điểm “trồi” được đồng đều trên lãnh thổ thông qua lực

hút từ trung tâm.

Lý thuyết cực của Francoi Perroux - 1950 [66]: một vùng không thể

phát triển kinh tế đồng đều ở tất cả các nơi trên lãnh thổ trong cùng một thời

gian, mà nó có xu hướng phát triển mạnh nhất ở một hoặc vài nơi nào đó, trong

khi đó, ở những nơi khác lại chậm phát triển hoặc trì trệ. Ý nghĩa của lí thuyết

6

này là giải thích sự cần thiết của việc phát triển kinh tế lãnh thổ theo hướng có

trọng điểm.

Ngoài ra, còn có một số lí thuyết khác đề cập đến TCLT [66], [67], đó là:

lí thuyết phi cân đối, lí thuyết phát triển các chuỗi hay chùm đô thị, lí thuyết

phát triển tập trung vào những lãnh thổ cụ thể mang chức năng chuyên môn

hoá…

Nhìn chung, các lí thuyết trên đã đưa ra những hướng nghiên cứu cơ

bản về tính kết cấu, về sự tính toán chặt chẽ các mối liên hệ để xác định quy

luật khách quan của sự phân bố và đã được ứng dụng thành công ở một số

nước trên thế giới như Liên Xô cũ, Pháp, Mỹ, Đức, Trung Quốc. Trong tình

hình thực tế TCLTKT ở nước ta, tác giả đã tham khảo các lý thuyết trên để

phân tích, đánh giá thực trạng TCLTKT theo ngành và theo không gian, xác

định phương án TCLTKT cấp tỉnh.

4.2. Ở Việt Nam

Trong thời gian gần đây, những vấn đề lí luận và thực tiễn về TCLT đã

bắt đầu được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu. Theo GS Lê Bá

Thảo: “Ở Việt nam, bắt đầu từ năm 1990, vấn đề TCLT đã được đề cập đến.

Sau đó, vào cuối những năm 1994 đầu năm 1995 các đề tài trọng điểm và độc

lập gắn với nội dung về TCLT đã được Bộ Khoa học công nghệ và môi trường

đề xuất và thực hiện. Một hướng nghiên cứu mới đã có kết quả ở nhiều nước

phương Tây và bắt đầu được ứng dụng ở Việt Nam. Đó là phương hướng tổ

chức lãnh thổ hay có khi còn gọi là quy hoạch lãnh thổ” [29, tr. 284].

GS Lê Bá Thảo còn cho rằng: “Về thực chất, TCLT là một phương

hướng nhằm cải thiện và sửa chữa bằng những hành động “duy ý muốn”

mang tính tự nguyện chứ không phải “duy ý chí” có phối hợp với nhau nhằm

sử dụng một cách có hiệu quả nhất các tài nguyên có trong một lãnh thổ nhất

định - có thể trong cả nước hoặc trong từng vùng hoặc ở cấp thấp hơn - nhằm

7

phục vụ cho sự phát triển. Đồng thời, nó còn có nhiệm vụ xoá bỏ dần sự mất

cân bằng về mặt KT - XH giữa các vùng, các địa phương. Mặt khác, nó cũng

đòi hỏi phải có sự dự báo cho tương lai với các kịch bản nhất định, tất nhiên

phải chú ý đến tính hợp lí của sự phân bố không gian” [29, tr. 285].

Tư tưởng của GS Lê Bá Thảo viết trong Tổ chức không gian lãnh thổ

hợp lí cho thập kỷ đầu thế kỷ XXI: "Nói tóm lại Việt Nam nhất thiết phải tổ

chức lại lãnh thổ đất nước với một quyết tâm và sự chỉ đạo khoa học có tính

toán nhằm giải quyết những yêu cầu bức xúc hiện nay của đất nước là: 1) Sử

dụng một cách có hiệu quả các tài nguyên thiên nhiên và xã hội để đảm bảo

được một sự phát triển liên tục và bền vững, 2) Thu hẹp khoảng cách về trình

độ phát triển giữa các phần khác nhau của lãnh thổ...và 3) Dự báo được để có

một sự phát triển đúng đắn hơn..." [69].

Theo Ngô Doãn Vịnh, Bàn về phát triển kinh tế (2005), “Tổ chức

không gian KT - XH được coi như là một trong những biện pháp quan trọng

nhất để phát triển. Muốn phát triển một cách có hiệu quả không thể không tiến

hành tổ chức không gian KT - XH một cách hợp lí. Tổ chức không gian KT -

XH là một trong những giải pháp có tính nghệ thuật hàng đầu để phát huy tốt

nhất các nguồn lực. Nhờ có TCLT hợp lí mà có thể khắc phục được tình trạng

chồng chéo, quá tải về sức chứa lãnh thổ cũng như khắc phục được tình trạng

phát triển rời rạc giữa các lãnh thổ với nhau và giữa các ngành trong một lãnh

thổ” [66, tr. 349]. Các công trình nghiên cứu của ông trong thời gian gần đây

đã đề cập một cách khá đầy đủ nội dung liên quan đến TCLT.

Đối với các nhà khoa học Địa lí ở các trường Đại học đã tiến hành biên

soạn một số tài liệu, giáo trình liên quan đến TCLTKT. Đó là các giáo trình

Địa lí KT-XH đại cương (2005) [42], Địa lí KT - XH Việt Nam [33], [34],

[38], các sách chuyên khảo như: Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam

(2008) [22], Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế [39], [40]…

8

Nhìn chung, các tài liệu trên đã đề cập đến những nội dung rất cơ bản

liên quan đến TCLTKT, đó là khái niệm, bản chất, các nhân tố ảnh hưởng đến

TCLTKT, các lí thuyết phát triển không gian và các hình thức TCLTKT có ý

nghĩa đối với sự phát triển KT - XH.

Đặc biệt, ở nước ta sau những năm đầu của thập kỉ 90 đến nay, đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu về Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH của từng

vùng kinh tế, các đề án phát triển các hình thức TCLTKT với sự chủ trì là các Bộ

như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tổng cục

Du lịch... Trong đó, tiêu biểu là Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH vùng

Duyên hải Nam Trung Bộ đến năm 2010 (1996) [9], Tổ chức lãnh thổ kinh tế

trọng điểm miền Trung Việt Nam, Đề tài độc lập cấp Nhà nước,Viện Chiến

lược phát triển (1996) [3], Quy hoạch phát triển HLKT đường 19 (2000) [1],

Quy hoạch phát triển mạng lưới đô thị vùng Duyên hải Nam Trung Bộ,

(2005) [2]…; Các Đề án phát triển các hình thức TCLTKT do Bộ Kế hoạch

và Đầu tư chủ trì. Gần đây nhất, các Bộ, ban, ngành Trung ương đã phối hợp

với các địa phương thuộc vùng KTTĐ miền Trung, với các chuyên gia kinh tế và

các nhà đầu tư nước ngoài tổ chức thành công Diễn đàn hợp tác vùng KTTĐ

miền Trung (3/2010) và Hội nghị xúc tiến đầu tư vào vùng KTTĐ miền Trung

(6/2010) [73], [74]. Nhìn chung, nội dung của các quy hoạch, đề án và diễn đàn

này đã đề cập đến phương án phát triển kinh tế vùng, đặc biệt đối với khu vực

miền Trung. Qua đó, có thể nhận thấy được cả về mặt lí luận và thực tiễn các

hình thức TCLTKT theo ngành và theo không gian trên phạm vi cả nước.

“Có thể nói từ thập kỷ 90 những ý tưởng về tổ chức lãnh thổ đã được

các cơ quan chức năng Nhà nước dành nhiều kinh phí và xây dựng các đề tài

nghiên cứu cấp Nhà nước về TCLT ở Việt Nam. Điều đó đã tạo cơ hội cho

các nhà địa lý tham gia trong việc soạn thảo chiến lược tổ chức lãnh thổ đất

nước, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh tế lãnh thổ và

9

chiến lược phát triển gần gũi hơn với phương pháp luận của địa lý học. Điều

quan tâm nhất của các nhà địa lý là thời kỳ đến 2020, và xa hơn, đến năm

2050, phải thiết kế một sơ đồ tổ chức lãnh thổ mới, sâu sắc, toàn diện hơn, bổ

sung các bản đồ phân bố đã có sao cho các vùng chậm phát triển có điều kiện

phát triển hơn, kể cả các vùng biển và hải đảo, tránh tập trung hoá các vùng

sắp đạt tới hạn dung lượng dân cư và công trình các loại” [69].

Ngoài ra, từ trước cho đến nay cũng có rất nhiều luận án nghiên cứu

về TCLTKT một lãnh thổ cụ thể. Có thể kể đến một số luận án tiêu biểu

như: Ngô Thuý Quỳnh, Tổ chức lãnh thổ kinh tế theo hướng phát triển bền

vững ở tỉnh Vĩnh Phúc (2009) [27], Nguyễn Tưởng, Cơ sở khoa học của

việc tổ chức không gian du lịch dải ven biển Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng -

Quảng Nam (1999) [46], Phạm Lê Thảo, Tổ chức lãnh thổ du lịch Hoà

Bình trên quan điểm phát triển bền vững (2006) [32], Trương Phước Minh,

Tổ chức lãnh thổ du lịch tỉnh Quảng Nam (2000) [20], Hoàng Minh Quang,

Cơ cấu lãnh thổ nền kinh tế tỉnh Quảng Ninh (2006) [26], Trịnh Thanh

Sơn, Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến sắn ở các tỉnh Đông Nam Bộ

(2003) [28], …

Nội dung các luận án trên đã đề cập các cách tiếp cận khác nhau cơ sở lí

luận và thực tiễn về TCLTKT. Cụ thể là phân tích, đánh giá quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế liên quan đến TCLT, vai trò của các hình thức TCLTKT đối

với một số địa phương hoặc một số vùng kinh tế trên phạm vi cả nước...

4.3. Ở Bình Định

Từ trước đến nay, các công trình nghiên cứu trong tỉnh chủ yếu đi sâu vào

việc nghiên cứu một số khía cạnh mang tính chuyên ngành, gắn liền với thực

tiễn sản xuất, kĩ thuật khai thác... Đặc biệt, công tác quy hoạch phát triển KT -

XH được xem như là việc làm cần thiết của các nhà quản lí, các ban ngành trong

tỉnh Bình Định trong thời gian qua và thường xuyên được tiến hành điều chỉnh

10

và bổ sung. Nó bao gồm: Định hướng, quy hoạch phát triển HLKT đường 19

(2000) [49], Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển đối với từng

ngành kinh tế của tỉnh Bình Định [56], [57], [59], [60], Quy hoạch tổng thể phát

triển KT - XH thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định đến năm 2010 [53], Điều

chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH tỉnh Bình Định đến năm

2015 và tầm nhìn đến năm 2020 (2009) [61]…Nội dung của các đề án, các quy

hoạch của tỉnh Bình Định, dù là quy hoạch ngành hay quy hoạch lãnh thổ đều là

xây dựng phương án phát triển cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ nhằm giải quyết

có hiệu quả mối quan hệ liên ngành và liên vùng trên lãnh thổ tỉnh Bình Định.

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu luận án, tác giả đã xem những

nguồn tư liệu trên đây là hết sức quý giá, liên quan đến lĩnh vực của luận án.

Tác giả đã kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học để tiếp

cận và làm sáng tỏ cơ sở lí luận và thực tiễn về TCLTKT, áp dụng vào nghiên

cứu TCLTKT tỉnh Bình Định. Tác giả đã tiếp cận một số lí thuyết phát triển

không gian làm cơ sở để phân tích, đánh giá về thực trạng TCLTKT tỉnh Bình

Định theo ngành, theo không gian và xác định phương án TCLTKT tỉnh Bình

Định trong thời gian tới.

5. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Quan điểm nghiên cứu

5.1.1. Quan điểm hệ thống và lãnh thổ

Lãnh thổ KT - XH tỉnh Bình Định được coi là một hệ thống với các phân

hệ tự nhiên, dân cư, kinh tế, môi trường. Mỗi hình thức TCLTKT là một phân hệ

nằm trong hệ thống TCLTKT chung. Đồng thời, Bình Định lại nằm trong một hệ

thống lãnh thổ lớn hơn là vùng kinh tế Duyên hải Nam Trung Bộ.

Trên quan điểm hệ thống, mỗi hình thức TCLTKT của Bình Định được

coi là một phân hệ, nó vừa có tính độc lập tương đối nhưng lại có tính phụ thuộc

vào các phân hệ khác. Toàn bộ các phân hệ này cấu thành nên hệ thống

11

TCLTKT toàn tỉnh và hệ thống này quy định trình độ, tính chất của các phân hệ

con trong nó, đồng thời mỗi phân hệ lại tác động, ảnh hưởng đến sự phát triển

của TCLTKT chung.

5.1.2. Quan điểm tổng hợp

Địa bàn nghiên cứu tỉnh Bình Định được coi như một thể tổng hợp tương

đối hoàn chỉnh. Trong đó, các yếu tố tự nhiên - kinh tế - xã hội có mối quan hệ

chặt chẽ, tác động ảnh hưởng chi phối lẫn nhau trong một thể thống nhất. Mọi

đối tượng đều phát triển đồng đều, đầy đủ trong mối tương quan ràng buộc lẫn

nhau. Vì thế, cần phân tích toàn diện các khía cạnh, lựa chọn các yếu tố tạo ra

những phản ứng dây chuyền ảnh hưởng đến phân bố lãnh thổ địa bàn nghiên

cứu. Phân tích, đề ra định hướng phát triển phải mang tính tổng thể, trên cơ sở

phát triển toàn diện các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình TCLTKT.

5.1.3. Quan điểm phát triển bền vững

Lãnh thổ KT - XH phát triển bền vững là yêu cầu và cũng là mục tiêu

của nghiên cứu tổ chức lãnh thổ. Định hướng tổ chức lãnh thổ phải hướng tới

sự phát triển ổn định, đảm bảo sự phát triển hài hoà của toàn bộ hệ thống,

cũng như của từng phần tử cấu thành lãnh thổ; đảm bảo một trật tự đáp ứng

được yêu cầu phát triển dài hạn; đảm bảo mọi đối tượng tổ chức được "đặt"

đúng vị trí, giải quyết được mâu thuẫn giữa các đối tượng, không cản trở và

làm tổn hại đến nhau. Các tiểu vùng và các phân hệ được phát triển cân đối và

trong thế cân bằng của hệ thống tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường.

5.1.4. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh

Quan điểm này đòi hỏi phải nhìn nhận quá khứ để lí giải ở mức độ nhất

định cho hiện tại và dự báo tương lai phát triển của các hình thức TCLT. Nếu

tách rời quá khứ khỏi hiện tại thì khó có thể giải thích thoả đáng sự phát triển ở

thời điểm hiện tại và nếu không chú ý đến tương lai thì khả năng dự báo sẽ bị

mất đi.

12

Trong quá trình nghiên cứu Địa lí KT - XH, các quan điểm cơ bản nói

trên được vận dụng không phải một cách riêng lẽ, mà là một cách tổng hợp.

Việc vận dụng tổng hợp các quan điểm giúp cho công trình nghiên cứu không

bị phiến diện, một chiều và đem lại những kết quả có độ tin cậy cao. Trên nền

chung đó, phụ thuộc vào nội dung, thời gian và địa điểm nghiên cứu cụ thể,

có thể quan điểm này hay quan điểm kia sẽ được chú ý nhiều hơn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5.2.1. Phương pháp thu thập nguồn tài liệu, số liệu

Phương pháp thu thập tài liệu là phương pháp truyền thống được sử dụng

trong các nghiên cứu nói chung và nghiên cứu Địa lí KT - XH nói riêng. Khoa

học không thể phát triển được nếu thiếu tính kế thừa, thiếu sự tích luỹ những

thành tựu của quá khứ. Các nguồn tài liệu này thường được lưu giữ ở các cơ

quan chức năng của Trung ương và địa phương.

TCLTKT là một đối tượng nghiên cứu khá phức tạp, đa dạng. Các chỉ tiêu

đánh giá có liên quan đến nhiều lĩnh vực tự nhiên, kinh tế, xã hội. Trong quá

trình nghiên cứu luận án tác giả đã tiến hành thu thập các văn bản, tài liệu, các

nguồn số liệu thứ cấp và sơ cấp có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Đồng

thời, tác giả đã kế thừa một số công trình, kết quả nghiên cứu trước đó nhằm

làm sáng tỏ hơn nội dung nghiên cứu của đề tài. Tài liệu thứ cấp bao gồm các

Niên giám thống kê hàng năm của tỉnh, của huyện làm nguồn tài liệu cơ bản.

Tài liệu sơ cấp: tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế, kết hợp trao đổi ý kiến

với các chuyên gia ở Trung ương và địa phương nhằm nghiên cứu các hình

thức TCLTKT tiêu biểu của tỉnh.

5.2.2. Phương pháp xử lí nguồn tài liệu kết hợp phân tích và đánh giá

tổng hợp

Sau khi đã thu thập được tài liệu, bước tiếp theo là việc xử lí theo mục tiêu

của việc nghiên cứu. Trong quá trình xử lí tài liệu, hàng loạt phương pháp truyền

thống được sử dụng như phân tích, tổng hợp, thống kê toán học, so sánh...

13

Việc sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp có ý nghĩa quan trọng

trước hết đối với việc “sóc” tài liệu, đặc biệt là số liệu. Các số liệu cho cùng một

đối tượng nghiên cứu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau chắc chắn có độ

“vênh” nhất định, thậm chí có thể khá lớn. Thông qua các phương pháp này,

nguồn tài liệu (trong đó có số liệu) đã được xử lí, sao cho phù hợp với thực tế

khách quan. Tiếp theo, tài liệu được phân tích, tổng hợp, đối chiếu để từng bước

biến chúng thành cơ sở cho những nhận định hoặc kết luận khoa học của công

trình nghiên cứu.

Từ các số liệu, tư liệu đã thu thập ở nhiều góc độ khác nhau, tác giả sử

dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá để phát hiện

vấn đề cần nghiên cứu. Đồng thời, tác giả đã xây dựng một số bảng thống kê và

sử dụng phương pháp thống kê toán học trong một số tính toán đơn giản để tìm

ra những thông số cần thiết phục vụ cho nội dung đề tài.

5.2.3. Phương pháp bản đồ và sử dụng hệ thông tin Địa lí (GIS)

Phương pháp bản đồ là một phương pháp rất đặc trưng cho các nghiên

cứu về Địa lí học nói chung và về Địa lí KT-XH nói riêng, bởi vì mọi nghiên

cứu thuộc lĩnh vực này đều mở đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản đồ. Việc

sử dụng hệ thông tin Địa lí được xem là một công cụ, hoặc là một phương

pháp có hiệu quả trong nghiên cứu Địa lí KT - XH. Nó cho phép chồng xếp

các thông tin địa lí để xác định được những đặc trưng của các đối tượng

nghiên cứu với độ tin cậy cao.

Đối với luận án, ý nghĩa thiết thực của bản đồ là góp phần giải quyết

nhiều nội dung nghiên cứu như đánh giá các nhân tố ảnh hưởng, phân tích

thực trạng TCLTKT theo ngành và theo không gian cũng như đề xuất định

hướng TCLTKT tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

14

Do đó, tác giả đã tiến hành biên tập xây dựng seri bản đồ thành phần

liên quan đến nội dung chính của luận án dựa trên cơ sở sử dụng bản đồ hành

chính tỷ lệ lớn của tỉnh Bình Định.

5.2.4. Phương pháp khảo sát, điều tra thực địa, thực tế kết hợp phương

pháp chuyên gia

Trong quá trình nghiên cứu luận án, tác giả đã tiến hành tìm hiểu

thực tế về các hình thức TCLTKT tỉnh Bình Định dọc theo các tuyến quốc

lộ 1A, quốc lộ 19 thuộc địa phận tỉnh Bình Định, sự gắn kết của nó đối với

một số địa phương thuộc vùng kinh tế lân cận như GiaLai, KonTum. Đồng

thời, tác giả đã tiến hành trao đổi với các chuyên gia kinh tế, các nhà quản

lí trong và ngoài địa phương. Những ý kiến trao đổi, góp ý của các chuyên

gia đã tạo điều kiện cho tác giả có thể am hiểu tốt hơn những vấn đề nghiên

cứu về đề tài.

6. Đóng góp mới của luận án

- Đúc kết và làm sáng tỏ thêm lí luận và thực tiễn về TCLTKT trong

điều kiện cụ thể của Việt Nam và để vận dụng vào việc nghiên cứu TCLTKT

cho cấp tỉnh.

- Đánh giá được thế mạnh và hạn chế của các điều kiện tự nhiên, KT -XH

cho việc TCLTKT tỉnh Bình Định và thực trạng phát triển kinh tế tỉnh Bình

Định trong thời gian qua.

- Phân tích thực trạng TCLTKT tỉnh Bình Định theo ngành và theo không

gian, làm rõ những mặt được và chưa được, làm căn cứ cho việc TCLTKT có

hiệu quả hơn.

- Đề xuất những định hướng chủ yếu đối với TCLTKT tỉnh Bình Định và

các nhóm giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện TCLTKT theo hướng bền vững.

15

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, các bản

đồ, biểu đồ, bảng biểu, tranh ảnh minh hoạ, phần nội dung của luận án được

trình bày trong 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về TCLTKT.

Chương 2: Thực trạng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định.

Chương 3: Định hướng và giải pháp về TCLTKT tỉnh Bình Định đến năm

2015 và tầm nhìn đến năm 2020.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!