Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Nghệ An
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Nghệ An
Nghiên cứu sinh: Lƣơng Thị Thành Vinh
Chuyên ngành: Địa lí học
Mã số: 62 – 31 – 95 – 01
Ngƣời hƣớng dẫn: 1. GS. TS. Lê Văn Thông
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Sơn
2011
2
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là một trong những hình thức tổ chức của nền
sản xuất xã hội theo lãnh thổ. Nó có vai trò to lớn trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc.
Nghiên cứu về các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp có ý nghĩa thực
tiễn lớn lao. Nắm đƣợc đặc điểm, bản chất của các hình thức tổ chức lãnh thổ công
nghiệp là cơ sở để bố trí hợp lý không gian công nghiệp phù hợp với các điều kiện
phát triển của từng khu vực, từng quốc gia, từng miền, từng vùng... nhằm đạt hiệu
quả kinh tế cao nhất thông qua sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật
chất, lao động cũng nhƣ tiết kiệm chi phí trong hoạt động sản xuất.
Trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, vấn đề tổ chức lãnh thổ công nghiệp đã
và đang đƣợc quan tâm một cách rộng rãi. Nó đƣợc xem nhƣ một giải pháp phát
triển công nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế - xã hội nói chung. Các nhà khoa học
đã đƣa ra một số hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp cơ bản. Nhiều quốc gia đã
áp dụng thành công và mang lại hiệu quả kinh tế rất cao, tạo động lực thúc đẩy toàn
bộ nền kinh tế - xã hội phát triển nhƣ Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaixia...
Ở Việt Nam, trƣớc thập kỉ 90 của thế kỉ XX hầu nhƣ chƣa có các nghiên cứu
về các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Năm 1994, Viện Chiến lƣợc phát
triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ) đƣa ra 6 hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở
Việt Nam là: điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghiệp, trung tâm công
nghiệp, dải công nghiệp, địa bàn công nghiệp trọng điểm; còn Viện chiến lƣợc phát
triển (Bộ Công Thƣơng) thì đƣa ra phƣơng án 6 vùng công nghiệp và đƣợc Chính
phủ phê duyệt; bƣớc đầu đã góp phần hoàn thiện bức tranh không gian tổ chức lãnh
thổ của nền kinh tế - xã hội nƣớc ta.
Tuy nhiên, giữa các quốc gia khác nhau, trên bình diện lãnh thổ rộng lớn, các
khái niệm về các hình thức tổ chức lãnh thổ còn vênh nhau. Đơn cử nhƣ khái niệm
về “cụm công nghiệp”, “khu công nghiệp”…
Ở Nghệ An, khái niệm tổ chức lãnh thổ công nghiệp chƣa đƣợc nghiên cứu
3
sâu và mới chỉ mang tính chất qui hoạch. Do đó, đề tài “Tổ chức lãnh thổ công
nghiệp tỉnh Nghệ An” đƣợc phát triển theo hƣớng chuyên sâu, chuyển từ mức độ
định tính đơn giản sang định lƣợng với mong muốn xây dựng một mô hình tổ chức
lãnh thổ công nghiệp của tỉnh sao cho mang lại hiệu quả cao nhất, góp phần vào
định hƣớng phát triển tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trên thế giới, vấn đề tổ chức lãnh thổ hay tổ chức không gian các hoạt động
phát triển của con ngƣời, trƣớc hết là hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ những cơ sở lý
thuyết kinh tế của Adam Smith (Lý thuyết bàn tay vô hình) và David Ricardo (Qui
luật lợi thế so sánh) [trong 18]. Từ các công trình nghiên cứu của V.Thunen vào
năm 1826 [trong 49], của A.Weber vào năm 1909 [90] đến “Lý thuyết của thành
phố trực thuộc trung ƣơng” (V.Christaller) [87], học thuyết khu kinh tế (IG.
Alessandrovob, M.M. Kolososkij), học thuyết phân chia địa lý của lao động (M.M.
Baranskij) [trong 86]…
Các nhà địa lý kinh tế - xã hội nghiên cứu kinh tế lãnh thổ, phát hiện những vấn
đề có tính qui luật và đúc rút chúng thành những lí thuyết phát triển kinh tế và không
gian kinh tế của sự phát triển. Quan sát cuộc sống của cộng đồng trên các lãnh thổ, thể
hiện qua các hành vi địa lí nhƣ sự trao đổi hàng hóa giữa ngƣời sản xuất và tiêu dùng
tại các “đầu ra”, “đầu vào”, các “nút” trung tâm và ngoại vi, nhà khoa học ngƣời Đức
V. Thunen đã nẩy sinh ý tƣởng về phát triển chuyên môn hóa nông nghiệp. Từ đây ông
đề xuất “Lý thuyết vành đai giữa trung tâm và ngoại vi”, trên cơ sở phân tích những
yếu tố định vị về địa tô chênh lệch, về mối quan hệ trong trao đổi hàng hóa… Ông cho
rằng “thành phố là trung tâm của thị trƣờng” [trong 49, 80]. Ý tƣởng địa tô chênh lệch
giữa các lãnh thổ về sau này đƣợc coi nhƣ nhân tố chìa khóa trong sự phân chia lãnh
thổ đồng nhất của một quốc gia thành các vùng đất khác nhau cho mọi chủ thể kinh tế -
xã hội. Mô hình này bƣớc đầu thể hiện ý thức tổ chức lãnh thổ.
Đƣợc đề xuất bởi học giả Anfred Weber (1909), lý thuyết khu vị luận công
nghiệp giải thích sự tập trung công nghiệp vào lãnh thổ do 3 nguyên nhân chủ yếu: 2
yếu tố đầu là chi phí vận tải rẻ nhất và chi phí nhân công thấp nhất là những yếu tố lãnh
4
thổ chung nhất để xác định mô hình định vị và cơ cấu địa lí, thứ 3 là các lực tích tụ và
không tích tụ - đó là những yếu tố địa phƣơng xác định mức độ phát tán trong khung
chung. Nhƣng quan trọng hàng đầu trong định vị vẫn là yếu tố chi phí vận tải. Mục
đích của sự định vị công nghiệp tập trung là để “cực tiểu hóa chi phí và cực đại hóa lợi
nhuận” [90, trong 27]. Và A. Weber là ngƣời đầu tiên nghiên cứu lý thuyết tổng hợp về
định vị công nghiệp, đƣa ra mô hình không gian về phân bố công nghiệp.
Trên cơ sở những ý tƣởng của Thunen và Weber, khoảng gần 100 năm sau,
tức năm 1903 khi đã hình thành nhiều không gian công nghiệp thƣờng kéo theo là
các không gian đô thị, nhà khoa học ngƣời Mỹ W. Christaller đề xuất “lý thuyết về
điểm trung tâm”. Do sự cạnh tranh trong phát triển cùng với lý thuyết về chi phí nhỏ
nhất và thu lợi lớn nhất nên đã hình thành nhiều điểm trung tâm với qui mô kích cỡ
khác nhau [87, trong 85, 83]. Lý thuyết trung tâm của Christaller sau này đã đƣợc
nhà bác học ngƣời Đức A. Losh bổ sung và phát triển: giữa các trung tâm có mức
độ phụ thuộc khác nhau. Thành phố quan trọng nhất trong hệ thống là đầu mối của
toàn bộ hệ thống các điểm dân cƣ, vai trò thƣơng mại dịch vụ của nó khống chế các
vùng phụ cận [trong 85, 27]. Từ các lý thuyết trên đây đã hình thành lý thuyết mang
tính qui luật trong phân bố không gian trong nghiên cứu phân cấp đô thị, xác định
các nút trọng điểm trong một lãnh thổ nhất định.
Nhà kinh tế học ngƣời Pháp, Francoi Perroux đƣa ra lí thuyết cực phát triển
vào đầu những năm 50 của thế kỉ XX. Lí thuyết này chú trọng vào những lãnh thổ
làm phát sinh sự tăng trƣởng kinh tế của lãnh thổ [trong 88]. Lí thuyết cực phát triển
đƣợc cải biên qua các thời kì, sau đó đã đƣợc một số tác giả nhƣ Albert, O.
Hirshman, Gunnar Myrdal, Friedmann tổng hợp lại. Lí thuyết này cho rằng công
nghiệp và dịch vụ có vai trò to lớn đối với sự tăng trƣởng của vùng. Đi kèm theo
với điểm phát triển tăng trƣởng là một “nhân” công nghiệp then chốt. Ngành công
nghiệp then chốt phát triển và phát đạt thì lãnh thổ địa phƣơng nơi nó phân bố cũng
phát triển và phát đạt, do công ăn việc làm tăng nên thu nhập và sức mua của dân cƣ
cũng tăng lên, các ngành công nghiệp và các hoạt động mới bị thu hút vào vùng đó
[trong 27, 35]. Trên cơ sở lực hút và lực đẩy của mỗi trung tâm mà hình thành nên
5
vùng ảnh hƣởng của nó tới xung quanh. Đây là lí thuyết giải thích sự cần thiết của
phát triển kinh tế lãnh thổ theo hƣớng phát triển có trọng điểm.
Trong số các lý thuyết của trƣờng phái Xô Viết, đáng chú ý chu trình sản xuất
năng lƣợng của Kolososkij (1947), theo ông: “chu trình năng lƣợng đƣợc hình thành
trên cơ sở một loại tài nguyên chủ yếu kết hợp với một nguồn năng lƣợng để tổ chức
sản xuất theo một quy trình hoàn chỉnh”. Kế thừa tƣ tƣởng này, nhiều nhà địa lý Xô
viết đã bổ sung, hoàn thiện và đƣa ra chu trình sản xuất năng lƣợng EPS) bao gồm:
EPS kim loại đen, EPS kim loại màu, EPS nhiên liệu cứng (than đá, dầu), EPS hoá học
quặng mỏ, EPS hoá học kim loại hiếm, EPS công nghiệp dầu khí, EPS silicat, EPS kĩ
thuật thuỷ lợi, EPS sử dụng nhiệt năng dƣới sâu, EPS công nghiệp gỗ, EPS nông - công
nghiệp, EPS đại dƣơng, EPS công nghiệp chế biến và EPS sinh hoá [trong 49].
Từ các lý thuyết về tổ chức lãnh thổ và thực tiễn phát triển, phân bố của
ngành công nghiệp, các nhà địa lý đã đƣa ra những ý tƣởng và đề xuất về khái niệm
tổ chức lãnh thổ công nghiệp cũng nhƣ hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Mặc
dù khái niệm và các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp trên thế giới có những
nét khác nhau nhƣng đều hƣớng tới mục đích khai thác lãnh thổ một cách tối ƣu và
nâng cao hiệu quả sản xuất công nghiệp.
Tại Liên Xô, ý tƣởng tập trung các lực lƣợng sản xuất trong một lãnh thổ nhất
định với mục tiêu tối ƣu hóa việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động
của khu vực và phát triển toàn diện trong các điều kiện của nền kinh tế kế hoạch đƣợc
thực hiện trong các mô hình của lãnh thổ - công nghiệp phức hợp (TIC) [trong 86].
Nhƣ vậy, từ năm 1920 trong các văn liệu khoa học, các TIC đã đƣợc xác định
bởi các nhà khoa học Liên Xô - đó là các khu vực kinh tế: “Khu vực kinh tế là một
lãnh thổ công nghiệp đảm bảo việc sử dụng đầy đủ nhất, hợp lí nhất của tự nhiên và
các nguồn lực lao động của khu vực” (Kazanskij, 1970) [trong 86]. Cùng với sự biến
đổi của hệ thống lãnh thổ sản xuất của Liên Xô, có sự cần thiết phải phân chia các
tiểu vùng kinh tế, vì đảm bảo cho kế hoạch chính xác hơn, phục vụ cho sự phát triển
của lãnh thổ. Kể từ đó, TIC đã đƣợc phân tích nhƣ một tế bào chủ yếu của khu vực
6
kinh tế, từng bƣớc biến đổi từ một khái niệm khoa học vào một đối tƣợng của qui
hoạch kinh tế và hình thành một hình thức tổ chức lãnh thổ của lực lƣợng sản xuất.
Nhƣ vậy, cùng với khái niệm “tổ chức lãnh thổ kinh tế”, thuật ngữ “tổ chức
lãnh thổ sản xuất công nghiệp” đƣợc các nhà khoa học Xô Viết công nhận và sử
dụng trong các tài liệu khoa học vào đầu những năm 60. Sau đó khái niệm “tổ chức
lãnh thổ” hay còn gọi là “tổ chức không gian” đƣợc tiếp nhận và sử dụng ở nhiều
nƣớc phƣơng Tây, đặc biệt là ở Mĩ vào đầu những năm 70 [trong 49, 80]. Nhƣng
chỉ từ giữa và cuối thời gian này, khái niệm “tổ chức lãnh thổ” mới đƣợc các nhà
khoa học thế giới nghiên cứu và sử dụng rộng rãi với tƣ cách là công cụ tƣ duy tổng
hợp, công cụ tổ chức thực tiễn các hoạt động của xã hội.
Các hình thức TCLTCN rất đa dạng và phong phú. Lịch sử nghiên cứu các hình
thức TCLTCN đã có từ lâu, song cho tới nay quan niệm về các hình thức TCLTCN rất
khác nhau giữa các nƣớc. Ở Liên Xô và Đông Âu trƣớc đây đã đƣa ra 6 hình thức
TCLTCN bao gồm: điểm công nghiệp, trung tâm công nghiệp, khu công nghiệp, cụm
công nghiệp, thể tổng hợp công nghiệp, vùng công nghiệp [trong 49]. Khác với trƣờng
phái địa lý Xôviết, các nhà khoa học phƣơng Tây không đƣa ra những định nghĩa có
tính chất hàn lâm, mà đi thẳng vào một số hình thức TCLTCN gắn với thực tiễn và
nhấn mạnh nhiều đến quan niệm, nội dung cũng nhƣ quá trình hình thành KCN [35].
Cũng giống nhƣ phƣơng Tây, các nƣớc trong khu vực Châu Á nhấn mạnh đến quan
niệm và quá trình hình thành các khu công nghiệp (KCN). Hơn 40 năm qua, một số
nƣớc đã có nhiều thành công trong việc xây dựng những KCN, khu chế xuất, khu
thƣơng mại tự do, khu kinh tế cửa khẩu... và nó đã có vai trò tích cực đối với sự phát
triển kinh tế của các nƣớc này.
Ở Việt Nam, tổ chức không gian đƣợc đƣa vào nghiên cứu và ứng dụng thực
tiễn bƣớc đầu vào những năm 80. Tổ chức không gian kinh tế - xã hội đã trở thành
chƣơng trình đào tạo sau đại học tại Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân [53], và là
đối tƣợng nghiên cứu của các luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế và địa lí kinh tế -
chính trị của rất nhiều nghiên cứu sinh. Từ năm 1990 đến nay, đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội nói chung, TCLTCN nói riêng.
7
Vào những năm 1992, lần đầu tiên Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trƣờng
đã chấp nhận và triển khai 2 đề tài độc lập và trọng điểm cấp Nhà nƣớc, đó là “Tổ
chức lãnh thổ Đồng bằng sông Hồng và các tuyến trọng điểm” do cố GS. Lê Bá
Thảo chủ trì và “Tổ chức lãnh thổ địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam” do TS.
Đặng Hữu Ngọc chủ trì. Với kết quả này, tổ chức lãnh thổ “đã trở thành một
phƣơng pháp luận mới đƣợc chấp nhận, khác biệt với khái niệm qui hoạch vùng,
chiến lƣợc (hay kế hoạch) phát triển, tổ chức lãnh thổ sản xuất, tổng sơ đồ phân bố
lực lƣợng sản xuất… nhƣ đã làm trƣớc đây.” [31]
Đến năm 1996, với đề tài độc lập và trọng điểm cấp Nhà nƣớc về “Cơ sở khoa
học của tổ chức lãnh thổ Việt Nam”, GS. Lê Bá Thảo [12] đã phân tích một cách có hệ
thống và sâu sắc cơ sở lí luận và thực tiễn của TCLTCN Việt Nam trong chƣơng III
của đề tài. Ở đây, giáo sƣ đã phân tích thực trạng phân bố không gian công nghiệp của
Việt Nam để thấy đƣợc tính hợp lí và bất hợp lí trong nó. Từ đó đặt ra những yêu cầu
cho TCLTCN, so sánh thực tế định vị không gian công nghiệp với những lý thuyết
định vị phổ biến. Đồng thời, đƣa ra các điều kiện và khả năng phân bố không gian công
nghiệp, xác định những nhu cầu trƣớc mắt và dự báo với sự phát triển của một số
ngành công nghiệp chủ đạo, đặt ra vấn đề về việc lựa chọn các nguồn lực một cách kĩ
lƣỡng để phát triển hƣớng CMH cho từng địa phƣơng. Cuối cùng là thử phác họa một
sơ đồ khối TCLTCN Việt Nam.
Năm 1994, Viện Chiến lƣợc phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ) đã đƣa ra 6
hình thức TCLTCN ở Việt Nam là: điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công
nghiệp, trung tâm công nghiệp, dải công nghiệp, vùng công nghiệp. Cho đến nay đã có
một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về TCLTCN Việt Nam nhƣ: “KCN Việt Nam”
[1], “Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Việt Nam” [49]... Các công trình nghiên cứu trên
hầu hết đều nghiên cứu công nghiệp và TCLTCN trên phạm vi lãnh thổ cả nƣớc.
Ở lãnh thổ cấp vùng, tỉnh, thành phố có những đề tài nghiên cứu về TCLTCN
nhƣ: “TCLTCN chế biến nông - lâm - thủy sản vùng Đông Nam Bộ” [32], “Tổ chức
lãnh thổ công nghiệp vùng Tây Nguyên” [36]…
8
Ở Nghệ An, tỉnh đã lập và triển khai qui hoạch phát triển công nghiệp đến
năm 2020. Bên cạnh đó, cũng đã có một số công trình nghiên cứu có đề cập đến
công nghiệp và TCLTCN Nghệ An nhƣ: "Qui hoạch phát triển công nghiệp Nghệ
An đến năm 2020" [69], “Qui hoạch chung KKT Đông Nam và qui hoạch các KCN
trên địa bàn Nghệ An” [67]...
Nhƣ vậy, dựa trên những kết quả đạt đƣợc của các công trình nghiên cứu đề
tài đã kế thừa đƣợc hệ thống cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội nói
chung, tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng, cũng nhƣ cơ sở thực tiễn của tổ chức
lãnh thổ công nghiệp trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề tài vận
dụng những lí luận về tổ chức lãnh thổ để xây dựng cơ sở lí luận cho tổ chức lãnh
thổ công nghiệp Nghệ An và nghiên cứu sâu hơn các chỉ tiêu định lƣợng để lƣợng
hóa hiệu quả hình thức khu công nghiệp, một hình thức tổ chức lãnh thổ công
nghiệp tiêu biểu, phổ biến hiện nay trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam và đang đƣợc
tỉnh quan tâm đầu tƣ.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích
Trên cơ sở tổng quan những vấn đề lí luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ
công nghiệp, đề tài phân tích các nhân tố tác động đến TCLTCN, đánh giá hiện trạng
tổ chức lãnh thổ công nghiệp của tỉnh, trong đó tập trung vào phân tích hiệu quả hoạt
động khu công nghiệp nhằm phát hiện những bất hợp lí, những xu thế có tính qui luật
đối với tổ chức lãnh thổ công nghiệp của tỉnh. Qua đó, đề xuất phƣơng hƣớng tổ chức
lãnh thổ công nghiệp và các giải pháp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất về kinh tế - xã
hội và môi trƣờng.
3.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về tổ chức lãnh thổ
công nghiệp. Xác định hệ thống chỉ tiêu đánh giá cho một hình thức tổ chức lãnh thổ
công nghiệp tiêu biểu cho địa bàn cấp tỉnh - khu công nghiệp
- Phân tích, đánh giá những nhân tố chính ảnh hƣởng đến tổ chức lãnh thổ
công nghiệp tỉnh Nghệ An.
9
- Phân tích, đánh giá hiện trạng tổ chức lãnh thổ công nghiệp Nghệ An, trọng
tâm vào khu công nghiệp.
- Đề xuất định hƣớng và các giải pháp phù hợp cho việc tổ chức lãnh thổ công
nghiệp tỉnh Nghệ An.
3.3. Giới hạn nghiên cứu đề tài
- Về phƣơng diện lãnh thổ, đề tài nghiên cứu trên phạm vi lãnh thổ xác định
là tỉnh Nghệ An, có liên hệ với một số địa phƣơng lân cận.
- Về nội dung: đề tài đánh giá những nhân tố chính tác động đến tổ chức lãnh
thổ công nghiệp Nghệ An. Phần hiện trạng, đề tài tập trung phân tích một số hình
thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp chính trên địa bàn tỉnh, đặc biệt chú trọng vào
phân tích hiệu quả hoạt động của hình thức khu công nghiệp tập trung.
- Về thời gian: Đề tài sử dụng chuỗi số liệu từ 2001 - 2010 để phân tích hiện
trạng; định hƣớng đến 2020.
4. QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU
4.1. Quan điểm tổng hợp, lãnh thổ
Mọi sự vật hiện tƣợng đều tồn tại trong một không gian nhất định. Vì vậy, cần
phải gắn đối tƣợng nghiên cứu với không gian xung quanh mà nó đang tồn tại. Tổ chức
lãnh thổ công nghiệp là một bộ phận quan trọng trong tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội,
nó gắn bó chặt chẽ với hoạt động sản xuất của con ngƣời, môi trƣờng tự nhiên và môi
trƣờng kinh tế - xã hội bao quanh. Các thành phần cơ bản đó cùng với phƣơng thức sản
xuất tiến bộ hay lạc hậu sẽ đem lại sự phát triển nhanh hay chậm cho lãnh thổ đó.
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Nghệ An là một bộ phận quan trọng trong tổ chức
lãnh thổ kinh tế - xã hội của tỉnh, nó gắn bó chặt chẽ với môi trƣờng tự nhiên, môi
trƣờng kinh tế - xã hội và hoạt động sản xuất của con ngƣời trong phạm vi lãnh thổ tỉnh
Nghệ An. Bởi vậy, nghiên cứu TCLTCN của tỉnh là nghiên cứu mối quan hệ tƣơng tác
giữa các nhân tố tự nhiên - kinh tế - xã hội trên lãnh thổ tỉnh Nghệ An để từ đó phát
hiện ra những mối liên hệ nhân quả, những qui luật phát triển riêng của TCLTCN.
Trong quá trình nghiên cứu, quan điểm này đƣợc vận dụng khắc họa những đặc
trƣng của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa của Nghệ
10
An nói chung, cũng nhƣ các địa phƣơng nói riêng, để làm căn cứ xác định các vùng sản
xuất CMH, các khu nhân hội tụ cũng nhƣ những khu vực chậm phát triển, nhằm điều
chỉnh lại cấu trúc lãnh thổ công nghiệp Nghệ An một cách hợp lí và hiệu quả.
4.2. Quan điểm hệ thống
Mọi chủ thể tồn tại và phát triển trên trái đất đều có mối quan hệ gắn kết hữu cơ
trong thể thống nhất - nhƣ một hệ thống mang tính tự nhiên khách quan. Về góc độ tổ
chức lãnh thổ, quan điểm hệ thống trong nghiên cứu thiết kế, quản lí điều hành hệ
thống là lợi ích cục bộ phải phục tùng lợi ích chung của hệ thống, có nghĩa là mọi chủ
thể kinh tế - xã hội của một địa phƣơng (ví dụ: thể tổng hợp kinh tế một ngành trong
một thể tổng hợp kinh tế của một tỉnh) phải đặt lợi ích chung của tỉnh lên trên hết; các
tỉnh thỏa thuận với cấp vùng vĩ mô, các vùng vĩ mô phục tùng lợi ích của quốc gia.
Lãnh thổ Nghệ An đƣợc coi là một hệ thống tổng hợp các yếu tố tự nhiên - kinh
tế - xã hội bao gồm các hệ thống nhỏ bên trong là hệ thống tự nhiên, hệ thống dân cƣ -
xã hội, hệ thống hoạt động của TCLTCN. Hoạt động của hệ thống trong TCLTCN
Nghệ An luôn luôn trong trạng thái cân bằng động. Chẳng hạn nhƣ xây dựng một công
trình qui mô lớn nhƣ thủy điện Bản Vẽ sẽ có những biến động nhiều mặt trong nền
kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An, của vùng Bắc Trung Bộ và thậm chí là cả nƣớc láng
giềng. Bên cạnh đó, việc xây dựng một ĐCN dựa trên các yếu tố tự nhiên cũng cần
đƣợc xem xét một cách kĩ lƣỡng, cẩn thận để tránh những tác động làm tổn thƣơng đến
cấu trúc của hệ thống tự nhiên, biến đổi hệ thống tự nhiên trên diện rộng. Việc xây
dựng hàng loạt nhà máy thủy điện trên địa bàn tỉnh Nghệ An cần đƣợc xem xét lại một
cách có chọn lọc để có thể hạn chế những tác động xấu, phá vỡ thế cân bằng tự nhiên
cũng nhƣ kinh tế - xã hội trên lãnh thổ của tỉnh.
Xuất phát từ quan điểm hệ thống, TCLTCN Nghệ An là một bộ phận của tổ chức
lãnh thổ kinh tế - xã hội Nghệ An và đồng thời là một bộ phận của TCLTCN vùng Bắc
Trung Bộ. Do đó, vận dụng quan điểm hệ thống vào nghiên cứu TCLTCN Nghệ An để xem
xét mối quan hệ liên ngành, liên lãnh thổ để làm sao TCLTCN Nghệ An có thể phối hợp tốt
nhất với tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội Nghệ An, cũng nhƣ TCLTCN Nghệ An phải phục
vụ tốt nhất cho TCLTCN Bắc Trung Bộ nói riêng, TCLTCN Việt Nam nói chung.
11
4.3. Quan điểm phát triển bền vững
Quan niệm phát triển bền vững trong phát triển kinh tế là quá trình phải đảm
bảo có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh
tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trƣờng. Đó cũng chính là tiêu chí cho tổ chức lãnh
thổ kinh tế - xã hội nói chung, tổ chức lãnh thổ công nghiệp tỉnh Nghệ An nói riêng.
Trong quá trình xây dựng cấu trúc lãnh thổ sản xuất kinh tế cần phải đảm bảo tính
bền vững kinh tế, tính bền vững xã hội và tính bền vững môi trƣờng.
Về không gian, cần phải chú trọng phát triển bền vững từng khu vực trên lãnh
thổ của tỉnh, bộ phận cấu thành của phát triển bền vững vùng của tỉnh. Tuy thực tiễn
phát triển của nền kinh tế cạnh tranh đã thúc đẩy các vùng phát triển (nhƣ khu vực
thành thị, khu vực đồng bằng ven biển) phải phát huy cao độ các lợi thế của vùng và
gây xung đột với tính bền vững của toàn tỉnh và những vùng chậm phát triển (khu vực
đồi núi), thiếu gắn kết trong mô hình phát triển theo thời gian trên không gian, dẫn tới
mức độ lãng phí tài nguyên trầm trọng không ai kiểm soát, mức thu nhập của các tầng
lớp dân cƣ trên các vùng chênh lệch nhau khá xa, nhất là giữa thành thị và nông thôn.
Do đó, để phát triển bền vững tổ chức lãnh thổ công nghiệp cần phải có sự gắn
kết giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trƣờng, cũng nhƣ có sự gắn kết trong hệ
thống lãnh thổ của tỉnh giữa khu vực trung du miền núi với đồng bằng ven biển, thành
thị với nông thôn, cũng nhƣ sự gắn kết các mục tiêu phát triển của tổ chức lãnh thổ của
tỉnh với mục tiêu phát triển tổ chức lãnh thổ của vùng Bắc Trung Bộ và cả nƣớc.
4.4. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Mỗi một lãnh thổ đều có một bề dày lịch sử và có một nền văn hóa riêng; trải qua
một quá trình phát triển lâu dài để có thể tạo nên những đặc điểm riêng biệt về tự nhiên,
văn hóa và con ngƣời. Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội nói chung, tổ chức lãnh thổ công
nghiệp nói riêng cũng là sản phẩm của lịch sử. Do đó, việc nhìn nhận sự phát triển của nó
trong các giai đoạn phát triển là việc làm cần thiết để từ đó có thể rút ra những qui luật
phát triển, những bài học quí giá để có thể cấu trúc lại lãnh thổ ngày càng hợp lý.
Nghệ An là mảnh đất có một bề dày lịch sử và có một nền văn hóa lâu đời với
những bản sắc riêng. Trải qua quá trình phát triển lâu dài với bao thăng trầm của lịch sử
12
đã định hình những nét riêng ấy trong thế núi, hình sông và con ngƣời xứ Nghệ. Những
đặc trƣng ấy đã đƣợc khai thác vào trong sự phát triển của TCLTCN của tỉnh. Do đó,
việc nghiên cứu TCLTCN của tỉnh trƣớc hết cần phải xem xét những yếu tố có tính
chất nguồn cội cũng nhƣ sự biến động của những yếu tố đó và sự thay đổi về mức độ
tác động của các yếu tố đó theo thời gian đến TCLTCN.
Dƣới quan điểm lịch sử, cần phải có sự phân tích, đánh giá hiện trạng
TCLTCN qua các giai đoạn phát triển để rút ra những qui luật phát triển của nó cũng
nhƣ tiếp thu các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn tổ chức lãnh thổ để có thể đánh giá
đƣợc những khả năng, triển vọng và đề ra những giải pháp và định hƣớng phát triển
của TCLTCN Nghệ An trong tƣơng lai.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phƣơng pháp thu thập, xử lí và tổng hợp tài liệu
Phƣơng pháp thu thập, xử lí và tổng hợp tài liệu đƣợc sử dụng theo những
bƣớc sau để đạt đƣợc các nhiệm vụ nghiên cứu:
- Bƣớc chuẩn bị: xác định đối tƣợng và các nội dung thu thập tài liệu theo
mục tiêu của đề tài.
- Bƣớc tiến hành thu thập tài liệu.
- Bƣớc xử lí, phân tích và tổng hợp tài liệu.
Các tài liệu thu thập đƣợc xử lí, phân tích và tổng hợp trong đề tài dƣới nhiều
hình thức khác nhau. Đó có thể là những trích dẫn nguyên văn có chỉ rõ nguồn trích,
hoặc những dẫn chứng, những minh họa dƣới dạng các bảng biểu, tranh ảnh, hoặc có
thể vận dụng để đƣa ra cơ sở lí luận cho TCLTCN của tỉnh Nghệ An. Các tài liệu đƣợc
tổng hợp theo từng mục riêng dựa vào đề cƣơng nghiên cứu của đề tài. Đồng thời một
danh sách đầy đủ các tài liệu tham khảo sử dụng trong đề tài cũng đƣợc lập ra để làm
cơ sở cho việc đối chiếu.
5.2. Phƣơng pháp thống kê, so sánh
Phƣơng pháp thống kê, so sánh đƣợc sử dụng trong việc lập ra các bảng thống
kê định lƣợng cho các chỉ tiêu đƣợc đề cập trong đề tài. Mỗi bảng thống kê đều có
đánh số và đề mục rõ ràng cũng nhƣ ghi rõ nguồn. Các bảng thống kê có thể là giá trị
13
tuyệt đối hoặc giá trị tƣơng đối, có thể là số liệu gốc hoặc số liệu đã qua xử lí. Bên cạnh
những số liệu của lãnh thổ nghiên cứu, các số liệu của các lãnh thổ kế cận và khu vực
Bắc Trung Bộ về một số chỉ tiêu trong TCLTCN cũng đƣợc thu thập và xử lí để có thể
phân tích, so sánh.
Ngoài ra, các biều đồ, đồ thị cũng đƣợc sử dụng để thể hiện một cách trực
quan các chỉ tiêu đƣợc đƣa ra phân tích để có thể nhấn mạnh rõ hơn sự biến động của
các đặc trƣng, các mặt của đối tƣợng nghiên cứu. Trong quá trình sử dụng phƣơng
pháp thống kê, so sánh, nguồn cung cấp số liệu cũng nhƣ sự thống nhất về mặt thời
gian luôn đƣợc chọn lọc để đảm bảo tính nhất quán trong cho việc phân tích, so sánh.
5.3. Phƣơng pháp thực địa
Để có thể nghiên cứu một cách khách quan và xác thực TCLTCN Nghệ An, các
nghiên cứu thực địa đƣợc tiến hành để có thể thu thập số liệu, hình ảnh cũng nhƣ rút ra
những kết luận từ việc quan sát thực tiễn của các hình thức tổ chức lãnh thổ tỉnh Nghệ An.
Cùng với phƣơng pháp quan sát thực địa, phƣơng pháp điều tra đã đƣợc sử
dụng để thu thập thêm số liệu và thông tin thực tế. Phƣơng pháp này đƣợc tiến hành
trên cơ sở phỏng vấn, gợi mở và phát phiếu điều tra nhằm thăm dò ý kiến của ngƣời
lao động và ngƣời dân tại khu vực xây dựng điểm, khu, CCN, coi đó là cơ sở quan
trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất, hiệu quả xã hội và những ảnh hƣởng đối với môi
trƣờng của các cơ sở sản xuất công nghiệp cũng nhƣ đánh giá sức hút của các hình
thức TCLTCN.
5.4. Phƣơng pháp chuyên gia
Trong nghiên cứu TCLTCN Nghệ An, đề tài đã nhận đƣợc sự góp ý từ các
chuyên gia thuộc lĩnh vực phát triển vùng thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tƣ, của Sở Công
nghiệp Nghệ An, các giảng viên chuyên ngành địa lý kinh tế - xã hội của Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội. Trên cơ sở lấy ý kiến chuyên gia về các lĩnh vực: Cơ sở lí luận
của TCLTCN, về quản lí tài nguyên thiên nhiên trong phát triển công nghiệp, vấn đề
phát triển các hình thức TCLTCN, vấn đề phát triển liên ngành, liên vùng, các giải
pháp phát triển TCLTCN. Những kinh nghiệm của các chuyên gia trong lĩnh vực này
đã góp phần xây dựng một số chỉ tiêu đánh giá cho hình thức tổ chức lãnh thổ KCN.
14
5.5. Phƣơng pháp bản đồ và hệ thông tin địa lý
Việc sử dụng GIS trong phạm vi nghiên cứu của đề tài nhằm xác định sự
phân hóa không gian cũng nhƣ chất lƣợng và trữ lƣợng của các loại tài nguyên, sự
định vị của các hình thức TCLTCN, cũng nhƣ mối quan hệ của TCLTCN theo các
tuyến lực và hạt nhân hội tụ, xây dựng mô hình TCLTCN Nghệ An trong tƣơng lai
dựa trên các định hƣớng.
5.6. Phƣơng pháp dự báo
Trong việc xây dựng phƣơng hƣớng phát triển TCLTCN Nghệ An, đề tài đã
tham khảo và sử dụng những qui hoạch phát triển TCLTCN Nghệ An do Sở Công
nghiệp và UBND tỉnh Nghệ An thực hiện. Các phƣơng pháp dự báo có tính định
lƣợng sử dụng phƣơng pháp ngoại suy và kết quả của đề tài kế thừa một cách có chọn
lọc từ qui hoạch chung của tỉnh. Tuy nhiên, dƣới góc độ nghiên cứu tổ chức lãnh thổ,
phƣơng pháp lấy ý kiến chuyên gia đƣợc sử dụng để xây dựng định hƣớng và các giải
pháp phát triển của TCLTCN Nghệ An.
6. ĐÓNG GÓP CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN
- Đúc kết, bổ sung và làm sáng tỏ đƣợc cơ sở lí luận và thực tiễn về
TCLTCN và vận dụng chúng vào nghiên cứu ở tỉnh Nghệ An.
- Xác định đƣợc hệ thống chỉ tiêu mang tính định lƣợng để đánh giá một hình
thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp tiêu biểu cho địa bàn cấp tỉnh là KCN và áp dụng
vào địa bàn nghiên cứu.
- Đánh giá đƣợc các nhân tố ảnh hƣởng đến TCLTCN của tỉnh Nghệ An để
làm rõ đƣợc những thế mạnh và hạn chế của địa bàn nghiên cứu.
- Đánh giá đƣợc thực trạng TCLTCN của tỉnh Nghệ An với các hình thức:
điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghiệp, trung tâm công nghiệp, trong
đó tập trung đánh giá các KCN bằng hệ thống chỉ tiêu đã đƣợc xác định.
- Đề xuất đƣợc định hƣớng và các giải pháp để phát triển có hiệu quả hơn
TCLTCN ở tỉnh Nghệ An.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ công nghiệp
Chƣơng 2: Các nhân tố ảnh hƣởng đến TCLTCN tỉnh Nghệ An
Chƣơng 3: Hiện trạng tổ chức lãnh thổ công nghiệp tỉnh Nghệ An
Chƣơng 4: Định hƣớng và giải pháp TCLTCN tỉnh Nghệ An đến năm 2020
15
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ
TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội
1.1.1.1. Phân công lao động xã hội: cơ sở nền tảng của tổ chức lãnh thổ
kinh tế - xã hội
Phân công lao động xã hội (PCLĐXH) là một tất yếu khách quan bắt nguồn
từ nhu cầu và sự phát triển đời sống xã hội. Kinh tế hàng hóa là một hình thái của
nền sản xuất xã hội nối tiếp và cao hơn nền sản xuất tự cung tự cấp, trong đó, sản
phẩm đƣợc sản xuất ra để trao đổi thông qua mua bán trên thị trƣờng. Điều kiện
chung của tồn tại sản xuất hàng hóa là PCLĐXH và sự tách biệt (độc lập) kinh tế
giữa những ngƣời sản xuất. Phân công lao động xã hội tạo ra sự CMH sản xuất và
từng ngành nghề riêng biệt làm cho hoạt động sản xuất ngày càng đa dạng, phong
phú và rộng khắp. Nhƣ vậy, PCLĐXH có hai hình thức cơ bản là phân công lao
động theo ngành và phân công lao động theo lãnh thổ.
Phân công lao động xã hội theo ngành chính là tổ chức lao động xã hội theo
các ngành để tạo ra những sản phẩm cụ thể phục vụ yêu cầu xã hội. PCLĐXH theo
ngành phát triển từ thấp đến cao, từ nông nghiệp đến công nghiệp rồi đến dịch vụ.
Quá trình PCLĐXH theo ngành đã kéo theo quá trình phân công lao động theo lãnh
thổ - đây là một quá trình tất yếu thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa PCLĐXH theo
ngành và PCLĐXH theo lãnh thổ.
“Phân công lao động theo lãnh thổ chính là tổ chức lao động xã hội theo
ngành gắn với lãnh thổ, làm cho mỗi lãnh thổ có một chức năng riêng và công năng
tƣơng đối khác nhau” [80]. Quá trình phân công lao động theo lãnh thổ thúc đẩy
việc hình thành CMH sản xuất của từng vùng (địa phƣơng) dựa vào những thế
mạnh riêng của mình về sự khác biệt của điều kiện sản xuất cũng nhƣ tài năng của
ngƣời lao động, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có chất lƣợng cao, giá thành
hạ nhằm mang lại hiệu quả kinh tế.