Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông (Thực nghiệm phần Lịch sử Thế giới lớp 10 – chương trình chuẩn)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN HÀ GIANG
TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Thực nghiệm phần Lịch sử Thế giới lớp 10 – chƣơng trình chuẩn)
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thị Côi
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC
S. Đỗ Hồng Thái
Hà Nội, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN HÀ GIANG
TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Thực nghiệm phần Lịch sử Thế giới lớp 10 – chương trình chuẩn)
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
Mã số: 62.14.01.11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS.TS. Nguyễn Thị Côi
2. PGS.TS. Đỗ Hồng Thái
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn
Thị Côi PGS.TS. Đỗ Hồng Thái
Hà Nội, 2014
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang bước vào thời kỳ hội nhập với những cơ hội và thách thức
trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để khắc phục nguy cơ tụt hậu cần quan
tâm đến đổi mới giáo dục, coi đó là "quốc sách" hàng đầu. Trong đó, tri thức lịch sử
không chỉ giúp chúng ta xác định rõ vị trí, điều kiện và khả năng của mình trên
bước đường hội nhập quốc tế, mà còn trang bị những hiểu biết cặn kẽ về lịch sử dân
tộc và lịch sử thế giới trong tiến trình phát triển.
Hứng thú có vai trò quan trọng trong quá trình DHLS ở trường phổ thông.
Có hứng thú học tập, HS nhanh chóng tiếp thu bài, nhớ bài lâu, hiểu được tầm quan
trọng của lịch sử với sự phát triển của nhân loại. Hứng thú học tập còn kích thích
các em tích cực, say mê học tập để tiếp thu những kiến thức mới, tự giác nắm vững
kiến thức lịch sử và biết vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn cuộc sống.
Hứng thú học tập giúp HS phát triển toàn diện, ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ
của mình trong cuộc sống.
Hứng thú học tập được hình thành trong quá trình dạy học của GV. Ở trường
phổ thông hiện nay, hầu hết học sinh chưa có hoặc ít có hứng thú với bộ môn lịch
sử. Có nhiều nguyên nhân như "môn sử dài, khó nhớ", "có quá nhiều sự kiện"... Tuy
nhiên, không thể “đổ lỗi” cho bộ môn lịch sử vì nội dung lịch sử đã có nhiều ưu thế
trong việc giáo dục thế hệ trẻ và tạo hứng thú học tập cho HS. Qua bộ môn lịch sử,
tầm nhìn về quá khứ - hiện tại - tương lai của HS được mở rộng. Một trong những
nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng HS không thích học lịch sử là do quan
niệm và phương pháp dạy học của GV. GV dạy không hay, không hấp dẫn do đó
không tạo được hứng thú với HS.
Hứng thú học tập LS của HS được hình thành do tác động của nhiều yếu tố
trong đó có sự tác động quan trọng nhất từ nội dung và PPDH. Để tạo hứng thú học
tập LS cho HS cần tiến hành trên tất cả các mặt nội dung và PPDH. Trong đó đổi
mới PPDH là yêu cầu sống còn nhằm nhanh chóng thực hiện mục tiêu dạy học đáp
ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
2
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VIII) đã nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ
phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học”. Luật giáo dục nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam viết: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”. Vì vậy, GV cần khắc phục lối dạy truyền thống
thày chủ động, trò bị động và phải chuyển vai trò chủ động về học sinh, thày chỉ
đóng vai trò hướng dẫn, kích thích sự tìm tòi, sáng tạo của HS. Đồng thời, việc đổi
mới PPDH cũng cần bắt đầu từ việc xác định những kiến thức cơ bản HS cần nắm,
sử dụng phương pháp cũng như phương tiện dạy học hiện đại giúp giờ học phong
phú, sinh động... Từ đó mới có thể tạo hứng thú học tập cho HS.
Thực tế, trong những năm qua, vị thế bộ môn Lịch sử chưa được coi trọng
đúng mức, bộ môn vẫn bị coi là "môn phụ". Bản thân người GV cũng chưa thực sự
toàn tâm, toàn ý cho việc giảng dạy của mình. HS chưa yêu thích môn Lịch sử, phần
lớn học theo kiểu đối phó. Hiện nay, quan niệm của xã hội về bộ môn đã có phần thay
đổi, vị trí bộ môn được nâng cao song chất lượng vẫn chưa được cải thiện đáng kể.
Hơn nữa, việc DHLS ở các trường phổ thông còn hạn chế do điều kiện vật chất, đồ
dùng DH nghèo nàn, GV chủ yếu "dạy chay", cộng với "bệnh thành tích trong giáo
dục"... dẫn đến kết quả học tập của HS chưa phản ánh đúng chất lượng bộ môn.
Nguồn tri thức lịch sử cung cấp cho HS trong DH ở trường THPT vô cùng
sinh động và hấp dẫn, giúp HS có cái nhìn bao quát, toàn diện về lịch sử nhân loại, về
các quốc gia, các châu lục và về lịch sử dân tộc qua mỗi thời kỳ. Sự phát triển của xã
hội hiện nay không thể không có những giá trị truyền thống từ quá khứ, hiểu được
lịch sử của quá khứ là điều kiện để chúng ta nắm được hiện tại và hướng tới tương
lai. Am tường tri thức lịch sử là cội nguồn để giáo dục lịch sử đạt hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề "Tạo hứng thú học
tập cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT (Thực nghiệm phần Lịch
3
sử thế giới lớp 10 – chương trình chuẩn)" làm đề tài Luận án Tiến sĩ, chuyên
ngành Lý luận và PPDH môn Lịch sử.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Quá trình tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học
Lịch sử (thực nghiệm phần Lịch sử thế giới lớp 10 – THPT).
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án không có tham vọng nghiên cứu tất cả các lĩnh vực của hứng thú,
mà trên cơ sở nghiên cứu hứng thú học tập, hứng thú học tập lịch sử và vai trò, ý
nghĩa của nó trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, chúng tôi tập trung đề xuất
một số biện pháp sư phạm về nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp tiến hành
bài học nghiên cứu kiến thức mới ở trên lớp để tạo hứng thú học tập cho HS (thực
nghiệm phần LSTG lớp 10 – THPT).
- Chúng tôi tiến hành điều tra thực tế và thực nghiệm sư phạm tại một số
tỉnh như Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Giang, Sơn La, Quảng Ninh…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề hứng thú học tập, luận
án khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc tạo hứng thú trong học tập LS, xác định
những biểu hiện và yếu tố tác động đến hứng thú trong học tập lịch sử của HS, từ đó
đề xuất những biện pháp sư phạm về nội dung, hình thức tổ chức DH và các PPDH
nhằm tạo hứng thú học tập cho HS trong DHLS ở trường THPT.
Để thực hiện mục đích trên, luận án cần giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu lý luận về Tâm lý học, Giáo dục học, Giáo dục lịch sử về vấn đề
hứng thú và tạo hứng thú học tập cho HS.
- Tìm hiểu thực tiễn DHLS về vấn đề tạo hứng thú học tập cho HS thông qua
phiếu khảo sát, trao đổi, dự giờ...
- Tìm hiểu nội dung chương trình, SGK Lịch sử ở trường THPT, trong đó tập
trung vào phần LSTG lớp 10 (chương trình chuẩn).
4
- Đề xuất phương hướng đổi mới thiết kế nội dung bài học, các hình thức tổ
chức DHLS và những biện pháp sư phạm phù hợp nhằm tạo hứng thú học tập cho
HS khi tiến hành bài học lịch sử nội khóa ở trên lớp.
- Thực nghiệm sư phạm từng phần, toàn phần để kiểm chứng các biện pháp
sư phạm, từ đó rút ra kết luận về tính khả thi của các biện pháp sư phạm đã đề ra.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
- Cơ sở lý luận của đề tài là dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhận thức, giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về giáo dục và
giáo dục lịch sử.
- Lý luận về tâm lý, giáo dục học, phương pháp dạy học bộ môn
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu về Tâm lý giáo dục, Giáo dục
lịch sử, tài liệu lịch sử liên quan tới đề tài và nghiên cứu chương trình, nội dung
SGK lịch sử ở trường THPT nói chung, phần LSTG lớp 10 nói riêng.
- Nghiên cứu thực tiễn: Đề tài khảo sát thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ
thông hiện nay thông qua phiếu điều tra, dự giờ làm cơ sở cho việc đề xuất các biện
pháp sư phạm phù hợp. Đối tượng khảo sát là giáo viên, cán bộ quản lý chuyên môn và
học sinh lớp 10:
+ Đối với giáo viên: Tìm hiểu tình hình giảng dạy bộ môn ở một số trường
THPT, tìm hiểu quan niệm của giáo viên về tạo hứng thú học tập cho học sinh. Công
việc này được tiến hành qua dự giờ, trực tiếp trao đổi với giáo viên.
+ Đối với học sinh: Tiến hành điều tra tình hình học tập thông qua sổ điểm,
kiểm tra miệng, kiểm tra viết và trắc nghiệm khách quan.
- Thực nghiệm sư phạm: Soạn giáo án và tiến hành thực nghiệm sư phạm
từng phần, toàn phần ở một số trường THPT thuộc Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên
Quang, Hà Giang, Sơn La, Điện Biên, Quảng Ninh.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học, tập hợp, xử lý số liệu đã thu được
để phân tích, rút ra nhận xét, kết luận.
5
5. Giả thuyết khoa học
NẾU thực hiện tốt các biện pháp sư phạm nhằm tạo hứng thú học tập lịch sử
cho học sinh theo những yêu cầu mà luận án đưa ra SẼ góp phần nâng cao hiệu quả
dạy học lịch sử ở trường phổ thông, đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp
giáo dục hiện nay.
6. Đóng góp của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần:
- Khẳng định rõ vai trò, ý nghĩa của việc tạo hứng thú học tập cho HS trong
DHLS ở trường THPT.
- Đánh giá đúng thực trạng việc DHLS và thực trạng vấn đề tạo hứng thú học
tập LS cho HS ở trường THPT.
- Xác định những biểu hiện và các yếu tố tác động tới việc tạo hứng thú học
tập LS cho HS.
- Đề xuất những biện pháp sư phạm tạo hứng thú học tập cho học sinh qua việc
thiết kế nội dung bài học, thực hiện các hình thức tổ chức DH đặc biệt đối với bài nghiên
cứu kiến thức mới ở trên lớp nhằm nâng cao chất lượng DHLS ở trường THPT.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài được hoàn thành giúp bản thân tác giả nâng cao trình độ lí luận DH
môn Lịch sử, đặc biệt là các biện pháp tạo hứng thú học tập lịch sử cho HS
Đề tài góp phần làm phong phú thêm lí luận của PPDH Lịch sử, về vấn đề tạo
hứng thú học tập cho HS nhằm nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ được chúng tôi vận dụng vào DH môn Lịch sử
ở trường phổ thông. Đây là tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên các trường
cao đẳng sư phạm, đại học sư phạm… khi dạy học môn PPDH Lịch sử và GV Lịch
sử phổ thông trong việc vận dụng các biện pháp tạo hứng thú học tập cho HS vào
DHLS để nâng cao chất lượng bộ môn.
8. Cấu trúc của luận án
6
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Vấn đề tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trường trung học phổ thông – Lý luận và thực tiễn
Chương 3: Đổi mới thiết kế nội dung bài học và các hình thức tổ chức dạy
học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
Chương 4: Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy
học lịch sử bài nghiên cứu kiến thức mới ở trên lớp. Thực
nghiệm sư phạm
7
Chương 1
TỔNG QUAN
Hứng thú học tập là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu khoa học giáo dục
trong và ngoài nước quan tâm. Trong các năm qua, đã xuất hiện nhiều công trình
nghiên cứu về hứng thú nói chung, hứng thú học tập nói riêng. Chúng tôi điểm qua
một số công trình có thể tiếp cận được trong điều kiện của hệ thống tư liệu ở Việt
Nam về tâm lý học, giáo dục học và PPDH lịch sử.
Ngay từ thời cổ đại, vấn đề hứng thú mặc dù chưa hình thành các khái niệm,
song đã được phản ánh thông qua truyền thống hiếu học của nhân dân, đặc biệt là
của cư dân phương Đông trong đó có Việt Nam. Truyền thống hiếu học đã được
Khổng Tử - nhà giáo dục vĩ đại ở phương Đông đặt ra. Hiếu học là chìa khóa của
con người để tìm đường nhận thức. Đây là nền tảng tạo ra truyền thống hiếu học lâu
đời của nhân dân ta. Truyền thống hiếu học là thói quen ham thích, coi trọng việc
học hành được hình thành lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác.
Biểu hiện của truyền thống hiếu học trước hết là tinh thần ham học hỏi, thích
hiểu biết một cách tự nguyện và bền vững. Người hiếu học là người luôn có nhu cầu
học tập suốt đời. Bởi sự học như chiếc thang không nấc chót chỉ có thể tiến lên phía
trước mà không được phép dừng lại, không được phép quay đầu vì đứng lại hay
quay đầu đồng nghĩa với tụt hậu. Quá trình dạy học cần đạt “Học nhi bất yếm, Hối
nhân bất quyện” tức là Học không biết chán, dạy người không biết mỏi. Biểu hiện
thứ hai của truyền thống hiếu học là thái độ luôn coi trọng sự học, coi trọng người
có học. Vì vậy, Lịch sử dân tộc đã từng biết đến rất nhiều tấm gương hiếu học của
các bậc hiền tài, đức cao đạo trọng như: Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo, Chu Văn
An, Mạc Đĩnh Chi, Lương Thế Vinh, Lê Thánh Tông, Phùng Khắc Khoan, Lê Quý
Đôn, Hồ Chí Minh,…
Truyền thống này được tiếp bước qua hàng ngàn thế hệ, kích thích nhu cầu
học tập không ngừng của nhân dân ta. Những thành công đạt được qua sự nghiệp
học tập trở thành yếu tố kích thích người học tiếp tục học để đạt được những thành
tựu lớn hơn. Đó chính là khởi đầu cho hứng thú học tập.
8
1.1. Những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
1.1.1. Những nghiên cứu về hứng thú, hứng thú học tập trong Tâm lý học,
Giáo dục học
Từ những năm đầu thế kỷ XX, các nhà tâm lý học đã có những nghiên cứu
về hứng thú:
Năm 1911, X.A. Ananhin đã quan tâm đến khái niệm hứng thú, ông lo ngại
việc sử dụng bừa bãi khái niệm hứng thú, đồng thời thấy được tính bất ổn và đa
dạng của khái niệm [67, tr.4]. Tuy nhiên, trong những năm đầu của thế kỷ XX, các
nhà nghiên cứu hầu như muốn lảng tránh khái niệm này.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, X.L.Rubinstein đã đưa ra khái niệm về
hứng thú, con đường hình thành và vai trò của hứng thú. Ông cho rằng, hứng thú là
biểu hiện của ý chí và tình cảm.
Năm 1931, ở Anh tác giả E.K.Strong trong tác phẩm “Change of interest with
age” đã đưa ra phương pháp nghiên cứu về hứng thú, nêu nhiều câu hỏi và tiến hành
điều tra trên nhiều đối tượng khác nhau, trong đó ông đã chú ý đến lứa tuổi HS. Tác
giả cho rằng hứng thú được biểu hiện ra trong xu thế của con người có mong muốn
học được một số điều nhất định, thích một vài hoạt động và định hướng tính tích cực
nhất định vào những hoạt động đó [116, tr. 55,62]. Tuy nhiên, ông chưa đi sâu phân
tích những biểu hiện, tác động của hứng thú đối với hoạt động học tập ở HS.
Tiếp đó, năm 1938, Ch.Buhler đã tìm hiểu khái niệm hứng thú trong tác
phẩm “Phát triển hứng thú ở trẻ em”. Ông coi hứng thú là nguồn gốc tinh thần của
tính tích cực biểu đạt tâm lý, đổi mới tâm lý. Tuy nhiên, ông mới dừng ở khái niệm
chung chung về hứng thú, chưa đề cập đến vai trò của giáo dục đối với việc hình
thành và phát triển hứng thú.
Như vậy, những năm đầu của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu tâm lý học coi
hứng thú là thuộc tính có sẵn của con người, gắn liền với cơ sở sinh học và quá
trình bộc lộ dần thiên hướng và hứng thú phát triển song song với quá trình lớn lên
của con người tức là bẩm sinh đã có và quá trình lớn lên của con người cũng là quá
trình bộc lộ dần thiên hướng của họ; hứng thú có nguồn gốc sinh vật; hứng thú được
9
biểu hiện ra như là khuynh hướng lựa chọn của con người, của ý tưởng, ý định con
người. Họ coi hứng thú là sự phát triển tự nhiên của con người, chưa chú ý đến sự
tác động của giáo dục và hoạt động có ý thức của con người trong quá trình hình
thành và phát triển hứng thú. Một số nhà tâm lý học lại gắn hứng thú với xúc cảm, ý
chí, coi đó là động lực của những xúc cảm khác nhau; hay gắn nó với quá trình xúc
cảm nhận thức; là thái độ nhận thức của con người với xung quanh, với một mặt
nào đó của chính nó và đối với một lĩnh vực nhất định mà con người muốn đi sâu
hơn. Bên cạnh đấy, có nhà tâm lý học lại gắn hứng thú với quá trình xúc cảm nhận
thức, là thái độ nhận thức của con người với thế giới; hay hứng thú là thuộc tính tích
cực hoạt động trí tuệ và tính cảm; hay hứng thú là kết cấu bao gồm nhiều nhu cầu.
Năm 1956, V.G.Ivanôp cho rằng hứng thú là thái độ nhận thức tích cực của
con người với thế giới, từ đó đi sâu nghiên cứu về sự phát triển của hứng thú và tầm
quan trọng của việc giáo dục hứng thú cho HS trong DH ở các trường trung học.
Năm 1958, M.F.Belaep đã có những nghiên cứu cụ thể hơn về hứng thú. Ông
cho rằng, ngoài những đặc trưng chung, khái niệm hứng thú còn có những đặc trưng
riêng, có thể chia thành hứng thú của trẻ em với trò chơi, các sự vận động, hứng thú
tìm giải đáp câu đố, tìm ra cái mới, cái bí ẩn, hứng thú của người chơi khi giành
chiến thắng, hứng thú khi chơi một môn thể thao như chơi cờ, chơi bóng đá, hứng
thú biểu diễn, hứng thú đọc truyện... Từ khái niệm hứng thú này, tác giả cũng giải
thích và xác định hứng thú của HS với các môn học, hứng thú của nghệ sĩ với biểu
diễn, của bác học với khoa học... Tuy nhiên, Belaep chưa đưa ra những biện pháp
để hình thành hứng thú cho học sinh [67, tr.2].
Trong “La Psychologie des interest” (Tâm lý học hứng thú), D.E Super đã
xây dựng phương pháp nghiên cứu hứng thú nghề nghiệp ở các đối tượng khác
nhau, ông cũng chú ý đến hứng thú của các nhóm HS khác nhau. Super quan niệm:
“Hứng thú không phải là thiên hướng, không phải nét tính cách của cá nhân mà đó
là cái gì khác, riêng rẽ với thiên hướng, riêng rẽ với tính cách, riêng rẽ với cá
nhân” [118, tr.6], tức là hứng thú là thuộc tính tâm lý có tính chất độc lập tương đối
với nhân cách và nó có bản chất riêng.
10
Những nhà nghiên cứu L.I.Bôzôvich, N.A.Bêlachve và các nhà tâm lý học
khác cũng đã nghiên cứu về hứng thú, các ông cho rằng khái niệm hứng thú rất rộng
rãi, nó bao hàm cả các dạng hoạt động như vui chơi, giải trí, học tập, sản xuất… và
cả các trạng thái của con người như say mê công việc, thiên hướng nghề nghiệp,
yêu thích một hoạt động cụ thể nào đó cũng là hứng thú. Các tác giả cũng đề cập
đến việc nhiều người còn đồng nhất hứng thú với tính tò mò, ham hiểu biết… Tuy
nhiên, các tác giả chưa phân biệt các giai đoạn phát triển của hứng thú.
Trong cuốn "Tâm lý học cá nhân" (1971), A.G. Côvaliôp đã đưa ra khái
niệm về hứng thú: “Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng
nào đó, do ý nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp dẫn về tình cảm của nó” [17,
tr.228]. Tác giả coi hứng thú là một thái độ đặc thù của một cá nhân đối với một đối
tượng nào đó, trên cơ sở đó đề ra những phương pháp giáo dục tích cực.
A.A. Liublinxkaia định nghĩa: “Hứng thú là thái độ nhận thức của con người
đối với xung quanh, đối với một mặt nào đó của chính nó, đối với một lĩnh vực nhất
định mà trong đó con người muốn đi sâu hơn” [62, tr. 28].
Năm 1980, P.A. Ruđich trong tác phẩm "Tâm lí học" đã đề cập đến khái
niệm hứng thú và đặc điểm tiêu biểu của hứng thú. Theo Ruđich “hứng thú là biểu
hiện xu hướng đặc biệt của cá nhân nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định
của cuộc sống xung quanh, đồng thời biểu hiện thiên hướng tương đối cố định của
con người đối với các hoạt động nhất định” [79, tr.350]. Tuy nhiên, trong tác phẩm
này, Ruđich chỉ phân tích vai trò của hứng thú trong vận động.
Trong cuốn "Từ hứng thú đến tài năng" (năm 1975), L.X. Xlôvaytrich đã
nghiên cứu một cách cụ thể về hứng thú và cho rằng đây là cơ sở của sự phát triển
nhân cách cũng như tài năng của HS.
Bên cạnh nghiên cứu về hứng thú, các nhà tâm lý học còn đi sâu nghiên cứu
về hứng thú nhận thức.
Năm 1966, I.V. Lepkôp đã nghiên cứu về hứng thú nhận thức và viết tác
phẩm “Sự hình thành hứng thú nhận thức cho học sinh trong quá trình tiến hành
các bài tập nghiên cứu về địa phương”. Tác giả cho rằng, tiến hành các bài tập nói
chung và bài tập nghiên cứu về địa phương nói riêng sẽ góp phần hình thành hứng
thú nhận thức cho HS.
11
Năm 1974, A.V. Daparôgiet trong “Tâm lý học” cũng đã nghiên cứu về hứng
thú nói chung và hứng thú nhận thức nói riêng. Ông quan niệm “hứng thú là khuynh
hướng chú ý tới đối tượng nhất định, là nguyện vọng tìm hiểu chúng một cách càng
tỉ mỉ càng hay” [21, tr.281].
N.G.Marôzôva trong “Hứng thú nhận thức” (1976) đã cho rằng: Hứng thú là
khuynh hướng lựa chọn, khuynh hướng chú ý của con người; là khuynh hướng tác
động một cách có hiểu biết, có ý thức đối với khách thể mà con người định hướng
vào đó; hay hứng thú là khuynh hướng ưu tiên chú ý vào một khách thể nào đó [67,
tr.5]. Đồng thời, tác giả đã nêu cấu trúc tâm lý của hứng thú, những điều kiện và khả
năng giáo dục hứng thú cho HS trong quá trình học tập, tác dụng của DH nêu vấn đề
đối với hứng thú nhận thức của HS. Marôzôva đã nghiên cứu khá đầy đủ về hứng thú,
cấu trúc, phân loại hứng thú… nhưng chưa đưa ra biện pháp, con đường hình thành
hứng thú nhận thức cho HS.
Về cấu trúc của hứng thú, tiến sĩ Marôzôva cho rằng có ít nhất 3 yếu tố đặc
trưng cho hứng thú: Có cảm xúc đúng đắn đối với hoạt động; Có khía cạnh nhận thức
của cảm xúc này tức là niềm vui trong tìm hiểu và nhận thức; Có động cơ trực tiếp
xuất phát từ bản thân hoạt động tức là hoạt động tự nó lôi cuốn và kích thích, không
phụ thuộc vào các động cơ khác (động cơ tinh thần, nghĩa vụ phải thực hiện, yêu cầu
của xã hội...). Những động cơ khác có thể hỗ trợ, làm nảy sinh và duy trì hứng thú
nhưng những động cơ này không quy định bản chất của hứng thú [67, tr.5].
Ba thành tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mỗi giai đoạn phát triển
của hứng thú, có thể thành tố này hoặc thành tố kia có sự phát triển nhiều hay ít. Dù
là hứng thú nào thì cũng bao hàm khía cạnh nhận thức và thái độ của cá nhân đối
với đối tượng ở một mức độ nhất định.
Qua các nghiên cứu của các nhà tâm lý học có thể thấy các nhà tâm lý học đã
rất quan tâm đến vấn đề hứng thú, hứng thú nhận thức. Một số công trình đã phân
loại hứng thú, biểu hiện của hứng thú, có công trình cũng đề cập đến con đường
hình thành hứng thú nói chung. Trên cơ sở những tài liệu đã được tiếp cận, chúng
tôi nghiên cứu và nêu ra khái niệm, biểu hiện của hứng thú học tập nói chung, hứng
thú học tập LS nói riêng.
12
Các nhà nghiên cứu K.Đ. Usinxky, A.I. Ghecxen, V.G. Bêlinxky, N.A.
Đapraliulôp, N.G. Secnưsepxky đã đề cập đến những tác động của hứng thú tới chất
lượng học tập, đồng thời cho rằng một trong những việc lĩnh hội tri thức kém là do
tình trạng không có hứng thú học tập, giáo viên thì chưa khơi dậy được hứng thú
cho học sinh [67, tr.4].
M.N. Sacđacốp ở Liên Xô (trước đây) đã chỉ ra trong tác phẩm “Tư duy của
học sinh” rằng hứng thú là một trong những điều kiện bên trong của tư duy, hứng thú
“làm cho tư duy trở thành một quá trình có ý chí, có mục đích và đôi khi đầy hăng
say, hào hứng”[80, tr. 9]. Để phát triển tư duy cho HS, GV cần tạo hứng thú học tập
cho các em.
Trong “Những cơ sở của lý luận dạy học” (1971), B.P.Êxipôp đã nêu lên mối
quan hệ giữa hứng thú học tập với tính tích cực, tự giác của HS trong học tập; đồng
thời chỉ ra vai trò của PPDH trong việc kích thích hứng thú của HS đối với khoa học;
vai trò của hứng thú đối với kết quả học tập của HS. Như vậy, để HS có hứng thú
trong học tập, PPDH của GV đóng vai trò to lớn. Có hứng thú, HS sẽ tích cực, tự
giác trong học tập từ đó kết quả học tập của HS sẽ được nâng lên. Tuy nhiên, tác giả
chưa đưa ra biện pháp để phát triển hứng thú học tập nói chung cho HS.
Sukina trong tác phẩm “Vấn đề hứng thú nhận thức trong khoa học giáo
dục” đã đưa ra định nghĩa “Hứng thú đó là sự kết hợp độc đáo các quá trình tình
cảm – ý chí và quá trình trí lực, tính tích cực nhận thức và hoạt động của con người
được nâng cao” và “Đó là thái độ riêng của cá nhân đối với đối tượng, ý thức được
ý nghĩa cuộc sống và sự hấp dẫn về tình cảm gây ra”[83,tr.5]. Đồng thời tác giả
cũng nêu những biểu hiện của hứng thú:
- Xu hướng lựa chọn của quá trình tâm lý của con người nhằm vào các đối
tượng và hiện tượng của thế giới xung quanh
- Xu thế, nguyện vọng, nhu cầu của cá nhân muốn hiểu được một lĩnh vực
hiện tượng cụ thể, một hành động xác định mang lại sự thoải mái cho cá nhân.
- Nguồn kích thích mạnh mẽ tới tính tích cực cá nhân, do ảnh hưởng của
nguồn kích thích này mà tất cả các quá trình tâm lý diễn ra khẩn trương, còn hoạt
động thì trở nên say mê và đem lại hiệu quả.
13
- Thái độ lựa chọn đặc biệt (không thờ ơ, bàng quan mà tràn đầy những ý
định tích cực, một cảm xúc trong sáng, ý chí tập trung) đối với ngoại giới, đối với
các đối tượng, hiện tượng, quá trình [83, tr.5].
Trên cơ sở đó Sukina cho rằng nguồn gốc cơ bản của hứng thú nhận thức
chính là nội dung tài liệu và hoạt động học tập.
I.P.Tơrêphilốp trong cuốn “Gây hứng thú toán học cho học sinh như thế
nào?” đã trình bày mối liên hệ giữa nhiệm vụ giáo dục của nhà trường và giáo viên
toán với hứng thú toán học của học sinh. Trong tác phẩm này, tác giả đã đề xuất 15
biện pháp giúp giáo viên thành công trong việc gây hứng thú toán học cho học sinh.
Vấn đề hứng thú cũng được I.F. Khalamôp đề cập đến trong "Phát huy tính
tích cực học tập của học sinh như thế nào" (1979). Khalamôp đã nêu định nghĩa:
“Hứng thú – đó là nhu cầu nhuốm màu sắc xúc cảm đi trước giai đoạn gây động cơ
và làm cho hoạt động của con người có tính chất hấp dẫn” [44, tr.28]. Tác giả đã
khẳng định tầm quan trọng của hứng thú trong hoạt động dạy học, đồng thời nhấn
mạnh sự cần thiết phải tạo hứng thú cho học sinh để nâng cao hiệu quả học tập. Ông
cho rằng “khi hoạt động nhận thức của HS dựa trên cơ sở của hứng thú nó sẽ trở
nên hào hứng, thoải mái và dễ dàng” [44, tr. 24].
Năm 1980, V.A.Cruchetxky trong “Những cơ sở của Tâm lý học Sư phạm”
đã đề cập đến vị trí, vai trò, biểu hiện của hứng thú trong học tập, mối quan hệ giữa
hứng thú tập với việc phát triển tư duy tích cực, độc lập; với dạy học nêu vấn đề và
hiệu quả của hoạt động học tập... Như vậy, theo tác giả, hứng thú có vai trò quan
trọng trong quá trình học tập của HS, có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển của tư duy,
đồng thời khẳng định dạy học nêu vấn đề là một trong những con đường gây hứng
thú học tập cho HS.
Trong “Phạm trù của hứng thú (phân tích triết học và phương pháp luận)”
[121], tác giả Trần Bảo trình bày những nội dung khách quan của hứng thú và cách
biểu hiện chủ quan của nó. Đồng thời, tác giả đã chỉ ra những đặc điểm đa dạng và
mâu thuẫn của hứng thú; phép biện chứng của hứng thú trong việc phát triển của xã
hội Việt Nam hiện nay.