Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tác động của việc Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới đối với xuất khẩu hàng hoá của
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
LUẬN VĂN:
Tác động của việc Trung Quốc gia nhập
tổ chức thương mại thế giới đối với xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài:
Trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế hiện nay,gia nhập tổ chức WTO là một bước
đi tất yếu đối với tất cả các nước. Và với việc Trung Quốc gia nhập WTO không chỉ là
sự kiện sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế Trung Quốc trong hiện tại và tương lai mà còn
ảnh hưởng chung đến nhiều nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt là các nước trong
khu vực.
Thực tế đã chứng minh như vậy, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, với nhiều lợi
thế sẵn có, cùng với bước đi đúng đắn, Trung Quốc trở thành một nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng nhanh nhất trên thế giớí trong nhiều năm liên tục, và đứng đầu thế giới
trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng chế tạo. Điều đó một mặt gây ra sức ép lớn
hơn cho các nước Châu Á trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu các
mặt hàng của họ sang các thị trường lớn trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU.
Tuy nhiên các nước Châu Á không phải là không có thuận lợi, với việc Trung Quốc
mở của thị trường của mình, các nước có thể khai thác một thị trường tiềm năng với
trên 1,2 tỷ người.
Đối với Việt Nam, do đặc điểm về vị trí địa lý và lịch sử, việc Trung Quốc gia nhập
WTO càng có ảnh hưởng sâu sắc hơn. Vốn đã có nhiều ưu thế hơn Việt Nam trong
nhiều mặt hàng xuất khẩu, với việc gia nhập WTO Trung Quốc sẽ được hưởng các ưu
đãi, đặc biệt là thuế quan của các nước thành viên WTO, điều này sẽ gây ra sức ép lớn
lên các hàng hoá cùng loại của Trung Quốc trên thị trường thứ ba. Đây là một bất lợi
lớn của Việt Nam trong việc cạnh tranh các hàng hoá cùng chủng loại, nhất là trên các
thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Với việc gia nhập WTO, môi trường đầu
tư của Trung Quốc còn được nâng cấp hơn nữa, điều đó đồng nghĩa tăng khả năng thu
hút vốn đầu nước ngoài. Tạo nên một sức ép cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài đối với các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh những thách thức là những cơ hội đối với Việt Nam, với một nền kinh tế
đang trên đà phát triển với tốc độ cao, theo đó là nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng
lên là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Cùng
với đó là các cam kết WTO, Trung Quốc sẽ thực hiện chế độ thương mại cởi mở hơn,
đó là cơ hội cho các hang hoá Việt Nam, đặc biệt là hàng nông, lâm, thuỷ sản có cơ
hội tăng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc.
Như vậy rất khó đánh giá những ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO
đến hoạt động xuất nhập khẩu khẩu Việt Nam.Các ảnh hưởng này phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như mức độ thương mại của Trung Quốc với các nước,lợi thế cạnh tranh từng
ngành hàng, hay mối quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam. Và vì vậy
cần có sự nghiên cứu cụ thể những lợi thế, hạn chế trong cạnh tranh các ngành hàng
xuất khẩu của Việt Nam trên từng thị trường xuất khẩu chính. Tìm ra những ảnh
hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến xuất khẩu Việt Nam khi Trung Quốc gia nhập
WTO. Từ đó tìm ra những đề xuất thích hợp cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt
Nam trong những năm tới. Chính vì lý do trên đây mà em đã chọn đề tài “Tác động
của việc Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới đối với xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu:
- Tìm ra vị thế của Trung Quốc, sau khi gia nhập tổ chức WTO, trong thương mại
toàn cầu.
- Tìm ra những những tác động tích cực và tiêu cực của Trung Quốc gia nhập WTO
đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
- Đề xuất một số các giải pháp cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nhằm khắc
phục các hạn chế và khai thác các tác động tích cực trong quá trình cạnh tranh của Việt
Nam với Trung Quốc.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Các tác động của việc Trung Quốc gia nhập tổ chức WTO tới hoạt động xuất khẩu
và nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu như nông sản, dệt may,
da giầy sang các thị trường lớn như Hoa kỳ, Nhật Bản, EU, ASEAN và thị trường
Trung Quốc trong giai đoạn 2001 – 2006
Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập số liệu theo các mốc thời gian trước và sau khi Trung Quốc gia nhập
WTO về xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc và của Việt Nam, Trung
Quốc với các đối tác thương mại khác.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh các số liệu và nghiên cứu lấy từ sách
báo, tạp chí có liên quan đến chủ đề nghiên cứu này.
Nội dung nghiên cứu:
Đề tài được kết cấu thành 3 chương (ngoài phần mở đầu và kết luận), nội dung
nghiên cứu cụ thể của từng chương như sau:
Chương I: Vai trò của Trung Quốc trong thương mại toàn cầu khi là thành viên của
WTO.
Chương II: Những tác động chủ yếu của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu của Việt Nam trong bối
cảnh Trung Quốc là thành viên chính thức của WTO.
CHƯƠNG 1
VAI TRÒ CỦA TRUNG QUỐC TRONG THƯƠNG MẠI TOÀN CẦU
KHI LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO.
1. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO ĐẾN NỀN
KINH TẾ TRUNG QUỐC.
1.1. Sơ lược các thoả thuận của Trung Quốc khi gia nhập WTO.
Có 5 quy tắc cam kết chính của chính phủ Trung Quốc khi tiến hành gia nhập
WTO, đó là; (1) không phân biệt đối xử; (2) mở cửa thị trường; (3) minh bạch và có
khả năng tiên đoán; (4) không bóp méo thương mại; (5) đối xử ưu đãi với các nước
đang phát triển. Sau đây là một số khái niệm về 5 vấn đề chính trên:
(1) Không phân biệt đối xử.
Trung Quốc cam kết tuân thủ theo nguyên tắc này, tức là áp dụng MFN (quy chế
tối huệ quốc) và NT (đối xử quốc gia) cho tất cả các nước là thành viên của WTO. Đối
với Trung Quốc điều đó có nghĩa là xoá bỏ hệ thống giá cả, các hạn chế thương mại
hay các thủ tục hành chính thống nhất hơn.
(2) Mở của thị trường.
Để thực hiện cam kết này được Trung Quốc thể hiện qua việc cắt giảm thuế quan
và phi thuế quan cũng như mở cửa dịch vụ. Thời hạn cuối để Trung Quốc thực hiện
cam kết này là sau 4 năm từ khi gia nhập WTO. Trên thực tế đã minh chứng rõ điều
này qua 1 số các số liệu sau:
Hàng rào thuế quan: Trung Quốc tiến hành giảm dần thuế nhập khẩu từ lúc gia
nhập cho đến năm 2005, đưa thuế bình quân gia quyền từ 13,3% năm 2001 xuống còn
6,8%/. Đặc biệt chấp nhận thuế suất 0% đối với các loại hàng viễn thông tin học. Thuế
dành cho hàng nông sản cũng giảm, đặc biệt thuế suất 1% cho hàng nông sản chính
với lượng nông sản chưa vượt quá hạn nghạch thuế quan
Hạn nghạch và hạn nghạch thuế quan: Đối với hàng công nghiệp, Trung Quốc cam
kết đến năm 2005 sẽ dần bãi bỏ hạn nghạch với hầu hết các mặt hàng. Trong lĩnh vực
nông nghiệp, sẽ áp dụng mức thuế rất thấp (1%) cho lượng nhập khẩu chưa vượt quá
hạn nghạch thuế quan. Đồng thời Trung Quốc cũng cam kết loại bỏ các hạn ngạch phi
thuế quan trái với WTO đối với hầu hết các loại mặt hàng từ ngày 1/1/2005
(3) Minh bạch và có khả năng tiên đoán.
Trung Quốc tuân thủ nguyên tắc này không chỉ được thể hiện việc thực hiện các
luật chung của WTO về minh bạch như công bố các luật và chính sách cụ thể. Mà còn
cam kết áp dụng một thể chế thương mại nhất quán, bộ máy tư pháp độc lập và xây
dựng một cơ chế để các bên có thể phản ánh các vấn đề về bảo hộ tại địa phương lên
chính quyền trung ương. Ngoài ra, Trung Quốc cũng rằng buộc toàn bộ biểu thuế quan
với hầu hết mức thuế ràng buộc thấp hơn tại thời điểm cam kết; nâng cao tính dễ tiên
đoán bằng cam kết không tăng thuế suất
Cam kết này còn được Trung Quốc thể hiện thông qua cam kết xoá bỏ dần những
hạn chế về thương quyền đối với tất cả các sản phẩm, loại trừ các hàng hoá nằm trong
danh mục thương mại nhà nước. Trên thực tế Trung Quốc đã thực hiện đúng theo các
cam kết của mình. Thàng 11/2003, Bộ thương mại Trung Quốc đã ban hành Quy định
tạm thời về minh bạch hoá trong quản lý thương mại, hay cuối năm 2003 Bộ thương
mại Trung Quốc đã lấy ý kiến đóng góp đối với Quy định quản lý đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực thương mại
(4) Không bóp méo thương mại.
Quy định chung của WTO về bóp méo thương mại bao gồm các quy tắc chung
trong các lĩnh vực như các biện pháp trợ cấp và đối kháng, chống bán phá giá và tự vệ.
Trung Quốc đã đưa ra những cam kết mạnh hơn mức yêu cầu đối với thành viên của
WTO. Ví dụ, Trung Quốc cam kết giới hạn trợ cấp nông nghiệp dưới mức 8,5% sản
lượng nông nghiệp, so với mức 3,5% hiện hành và 10% áp dụng cho các nước đang
phát triển khác.
Quyền tự vệ: Trung Quốc cho phép các nước là thành viên của WTO sử dụng
điều khoản tự vệ một cách tương đối rộng rãi, trong một thời gian dài để hạn chế hàng
nhập từ Trung Quốc, nếu như hàng này gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong
nước
Chống bán phá giá và thuế đối kháng: các nước khác được tiếp tục đánh giá việc
bán phá giá theo tiêu chuẩn “Trung Quốc là một nền kinh tế phi thị trường” trong vòng
15 năm sau khi gia nhập
(5) Đối xử ưu đãi cho các nước đang phát triển.
WTO đưa ra những quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D) cho các nước
đang và kém phát triển thành viên. Tạo thuận lợi cho phép các nước thành viên đang
phát triển thoát khỏi điều khoản MFN và dành cho các nước đang phát triển đối xử
S&D
Với việc thừa nhận Trung Quốc là một nước đang phát triển đã giúp Trung Quốc
giành được những ưu đãi và nhân nhượng nhất định như: Trung Quốc được hưởng
những ân hạn thực hiện những cam kết trong WTO như dỡ bỏ dần hạn nghạch và giấy
phép, tự do hoá dần việc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị
truờng; Hay được hưởng thuế suất GSP của một số nước
Trên thực tế, xét theo tiềm năng cạnh tranh của ngành công nghiệp nhẹ Trung Quốc
thì Trung Quốc không cần thiết có sự đối xử ưu đãi về mặt thuế quan mà cần được
giảm bớt hàng rào phi thuế quan của các nước phát triển, đặc biệt trong nghành công
nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động như dệt may và dày dép
1.2. Các lợi ích của Trung Quốc khi gia nhập WTO.
Trong nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, việc gia nhâp WTO có tác động hết sức
khách quan tới nền kinh tế nước này, đặc biệt là triển vọng trong dài hạn. Tăng trưởng
kinh tế Trung Quốc trong những năm gần đây thường ở mức 7-8%. Sau khi trở thành
thành viên của WTO, buộc Trung Quốc phải chuyển sang thời kỳ cải cách và mở của
mới, từ tự do hoá có chọn lọc sang tự do hoá toàn diện, từ tự do hoá đơn phương sang
tự do hoá dựa trên luật lệ của WTO. Điều này sẽ tạo ra những tác động năng động đến
các hoạt động kinh tế trong nước, thúc đẩy tăng trưởng năng suất. Những tác động này
thông qua hàng loạt các kênh như liên doanh với nước ngoài, chuyển giao công nghệ,
tiếp cận các viên nghiên cứu và cơ sở đào tạo nước ngoài, cải cách hành chính. Nhìn
chung, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong những năm qua suất phát từ 3 nhân tố
chính: Từ các nguyên tắc WTO; Từ nguồn vốn đầu tư FDI; Từ việc thực hiện các cải
cách thể chế và mở của thị trường.
1.2.1. Những lợi ích suất phát từ nguyên tắc của WTO.
Trở thành thành viên của WTO, Trung Quốc tham gia thương mại quốc tế trên cơ
sở không phân biệt đối xử, được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc
gia (NT). Giúp hàng hoá Trung Quốc tham gia vào thị trường thế giới (thị trường 148
nước thành viên của WTO) trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, được hưởng đối xử như
các nước thành viên khác và xoá bỏ những lý do để các cường quốc thương mại áp
dụng các biện pháp phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, Trung Quốc có thể nâng cao được
vị quốc tế và tạo thế đứng vững chắc hơn trong quan hệ quốc tế, giúp Trung Quốc có
thể được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong các tranh chấp thương mại, đặc
biệt là trước các áp lực của các cường quốc thương mại thông qua cơ chế giải quyểt
tranh chấp thương mại (DSM) của WTO
Ngoài ra Trung Quốc sẽ được đối xử đặc biệt và khác biệt giành cho các nước đang
phát triển trong WTO. Đối với Trung Quốc hiện nay, bảo hộ các ngành còn non trẻ là
một vấn đề sống còn, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp. Trung Quốc hiện nay vẫn là
một nước nông nghiệp với hơn 800 triệu người (khoảng 60% dân số). Với một phần tư
hộ nông dân sống dưới mức thu nhập 1 đô-la một ngày trong năm 1999 do đó mọi tác
động xấu đến nông nghiệp đều đáng được quan tâm. Và Trung Quốc đã được hưởng
quy chế giành cho các nước đang phát triển để duy trì chính sách bảo hộ cho ngành
nông nghiệp ở mức 8,5% thay vì mức 5% áp dụng cho các thành viên phát triển.
Khả năng linh hoạt hơn trong thực hiện các cam kết của WTO như được bảo hộ
một phần quyền kinh doanh và áp dụng một số hình thức trợ giúp giúp cải thiện năng
suất một số ngành sẽ đem lai thời gian trong quá trình chuyển đổi dần. Những ưu đãi
của các nước thành viên dành cho Trung Quốc, đặc biệt là hỗ trợ kỹ thuật sẽ giúp
Trung Quốc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Trung Quốc trên thị trường thế
giới.
1.2.2. Lợi ích từ việc cải cách thể chế và mở cửa thị trường.
Lợi ích lớn nhất mà Trung Quốc thu được là mức tăng trưởng ổn định xuất phát từ
các cam kết cải cách chính sách thương mại và đầu tư. Năng suất và hiệu quả kinh tế
sẽ tăng lên gấp nhiều lần con số dự báo 10 tỷ đô-la khi Trung Quốc mở cửa và điều
chỉnh thể chế cho tương thích với nền kinh tế mở, theo hướng kinh tế thị trường,
khuyến khích các công ty nước ngoài chuyển giao công nghệ tiên tiến, kèm theo đó là
việc sử dụng chuyên gia giỏi sang hướng dẫn. Cải cách toàn diện về mặt thể chế, luật
pháp, hệ thống ngân hàng tài chính và đặc biệt là cải cách các doanh nghiệp nhà
nướcgiúp Trung Quốc quản lý nền kinh tế của mình trên cơ sở minh bạch, có khả năng
tiên đoán và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Việc này giúp cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế
Có nhiều quan điểm bày tỏ sự lo ngại rằng khi mở cửa thị trường, Trung Quốc với
thị trường lớn sẽ trở thành nước nhập siêu, đặc biệt là hàng nông sản. Nhưng trên thực
tế, ba năm sau khi Trung Quốc gia nhập WTO nền sản xuất nội địa Trung Quốc đã có
khả năng điều chỉnh nhanh chóng, và có thể đứng vững trong cạnh tranh, đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng trong khi xuất khẩu tăng vọt. Được kết quả này, một phần từ
khả năng tiếp cận thị trường trên cGơ sở bình đẳng với 148 nước thành viên(tính đến
ngày 13/10/2004), nhưng chủ yếu nhờ vào chế độ thương mại tự do của chính Trung
Quốc, giúp tăng vốn đầu tư về sản xuất và phát huy nhiều lợi thế so sánh của nước
này.
Trung Quốc có một số lợi thế so sánh hơn hẳn hầu hết các nền kinh tế khác, có thể
kể ra như sau: Thứ nhất, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhờ vào diên tích địa lý
rộng lớn trải dài trên nhiều hình thái địa lý; Thứ hai, với diện tích rộng lớn, chi phí đất
đai sản xuất thấp hơn hẳn so với các nước khác; Thứ ba, Trung Quốc có lợi thế tuyệt
đối về nguồn nhân lực. Chi phí cho nguồn nhân lực thấp vì có một lượng lao động dư
thừa đáng kể từ khu vực nông nghiệp chuyển sang công nghiệp. Ngoài ra trình độ
người lao động Trung Quốc trong những năm qua đã được nâng lên không ngừng; Thứ
tư, quy mô thị trường rộng lớn và sức mua trong nước cao. Cùng với sự tăng trưởng
nhanh chóng của nền kinh tế Trung Quốc trong những năm qua, dự báo trong thời gian
sắp tới, thị trường Trung Quốc sẽ trở thành một thị trường đầy tiềm năng hơn nữa; Thứ
năm,Trung Quốc là quốc gia đứng hàng đầu thế giới về thu hút vốn đầu tư FDI (mặc
dù hiện nay dòng vốn FDI đổ vào Trung Quốc có dấu hiệu chững lại và nếu tăng chỉ
với tỷ lệ không vượt qua 10% trong năm 2005 - theo nhận định của Lu Jinyong, một
nhà nghiên cứu đầu tư nước ngoài của trường Đại học Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
tại Trung Quốc). Yếu tố này sẽ giúp Trung Quốc chuyển dần lợi thế so sánh, từ sản
xuất các sản phẩm mang hàm lượng nhiều lao động sang các sản phẩm có hàm lượng
vốn cao.
Trung Quốc bước đầu thành công trong các trương trình dài hạn, nhằm chuyển
hướng nền kinh tế nông nghiệp và cơ cấu mậu dịch nông phẩm, chuyển sang sản xuất
những nông phẩm có giá trị cao hơn, có khả năng xuất khẩu và khai thác lợi thế của
Trung Quốc. Trong năm 2003, giá trị xuất khẩu rau đã tăng 43% và xuất khẩu quả đã
tăng 80%. Hiện nay Trung Quốc đứng đầu thế giới về xuất khẩu rau khô, rau đông
lạnh, nấm chế biến, tỏi và quả đóng hộp. Trung Quốc khuyến khích người nông dân
chuyên môn hoá sản xuất dựa vào lợi thế so sánh, chuyển từ trồng các loại cây lương
thực chi phí cao sang các loại cây có giá thị gia tăng cao như rau, quả, nấm, măng
tây….
1.2.3. Lợi ích từ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Sau một số năm dòng vốn FDI đổ vào Trung Quốc có xu hướng giảm sút. Đến cuối
năm 2001, khi Trung Quốc gia nhập WTO, dòng vốn FDI đã tăng trưởng trở lại với
tốc độ năm sau cao hơn năm trước. Năm 2003, đã đánh dấu một bước ngoặt mới khi
lần Trung Quốc vượt qua Mỹ trở thành nước có thu hút FDI lớn nhất thế giới, với tổng
giá trị lên tới 53,5 tỉ USD. Đặc biệt là Trung Quốc đã thu hút được nhiều công ty
xuyên quốc gia (TNC) và các công ty TNC ngày càng đầu tư vào Trung Quốc với quy
mô lớn hơn. Đầu tư vào Trung Quốc cũng làm chuyển hướng FDI của các nước Mỹ,
Nhật Bản, EU vào các nước Đông Á khác và đặc biệt cũng khuyến khích các nguồn
FDI của chính các nước Đông Á như Hồng Công, Singapo đầu tư vào Trung Quốc.
Đạt được kết quả trên là nhờ cơ sở hạ tầng của Trung Quốc được nâng cấp và hiện đại
hoá và cơ chế chính sách trở nên minh bạch, dễ tiên đoán và khuyến khích các nhà đầu
tư nước ngoài. Các nhà chế tạo nước ngoài không phải chịu yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu,
cân đối ngoại hối và tỷ lệ nội địa hoá.
Ngoài việc tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, FDI mang lại nhiều lợi ích cho Trung
Quốc. FDI tạo ra môi trường cạnh tranh, giúp chuyển giao công nghệ, cách thức quản
lý kinh doanh và do đó giúp tăng yếu tố sản xuất. Điều này được thể hiện qua áp lực
giảm giá thế giới của hàng xuất khẩu Trung Quốc và sự thay đổi bản chất của luồng
FDI vào Trung Quốc. FDI thay đổi chủ yếu từ ngành chế suất sang đầu tư nhiều hơn
vào sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước, từ chỗ công nghiêp nhẹ sang công nghiệp
nặng và có công nghệ cao. Chính nhờ FDI mà ngành điện tử và chế tạo của Trung
Quốc đang phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng, đưa nước này trở thành
nước hàng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm trên. FDI cũng giúp giải
quyết vấn đề xã hội nan giải hiện nay là thất nghiệp do nó tạo thêm công ăn việc làm
cho người lao động đặc biệt là lao động dư thừa do cải cách doanh nghiệp nhà nước
và cải cách trong nông nghiệp.
Sau 3 năm gia nhập WTO ( tính cuối năm 2004), xuất nhập khẩu hàng hoá của
Trung Quốc đã tăng trưởng với tốc độ cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tốc độ tăng
trưởng GDP đã tăng từ 7,5% năm 2001 lên 8,0% năm 2002; 9,3% năm 2003 và lên
9,5% năm 2004. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng từ 7% năm 2001 lên 22% năm
2002 và duy trì mức 30% cho tới nay. Nhập khẩu cũng tăng mạnh cho nhu cầu phát
triển, nhưng hiện nay Trung Quốc vẫn là một nước xuất siêu. Chính sách mở cửa có
trật tự quyền kinh doanh mậu dịch ngoại thương đã khiến cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trở thành chủ thể kinh doanh mậu dịch đối ngoại của Trung Quốc,
ngoại thương của doanh nghiệp tập thể và tư nhân cũng nhanh chóng phát triển. Với
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 2004 đạt 40,9% so với tốc độ tăng trưởng 35,4% của
cả nước và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu là 40% so với tốc độ tăng trưởng 36,1% của
nhập khẩu cả nước
Có thể khái quát tác động của việc gia nhập WTO đối với Trung Quốc như sau:
Thứ nhất, Trung Quốc trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về sản xuất
và xuất khẩu hàng chế tạo như điện tử, giầy dép, dệt may… gây nên áp lực giảm giá
các mặt hàng này trên phạm vi toàn thế giới nhờ vào việc tận dụng các lợi thế so sánh
của mình như chi phí lao động và đặc biệt là FDI. Thứ hai, do mức độ bảo hộ giảm