Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

tác động của việc chấm dứt của hiệp định dệt may trong khuôn khổ wto đối với hoạt động xuất nhập
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Lời mở đầu
Dệt may là ngành sản xuất và xuất khẩu lâu đời trên thế giới hiện nay.
Ngay từ thời xa xưa con người đã chú ý đến vấn đề ăn mặc trong sinh hoạt
hàng ngày và cả trong giao tiếp. Họ đã có không ngừng cải tiến về hình dáng,
màu sắc, mẫu mã để cho ra đời những bộ trang phục ngày càng gọn nhe, sang
trọng và hợp thời.
Dệt may Việt Nam cũng là ngành lâu đời của Việt Nam. Việc sản xuất
phục vụ nhu cầu cho người tiêu dùng trong nước đã tồn tại từ lâu nhưng việc
xuất khẩu sang thị trường nước ngoài thì mới thực sự phát triển trong mấy
năm gần đây. Cùng với sự phát triển của ngành Dệt may thế giới, Việt Nam
cũng không ngừng đổi mới và hoàn thiện mình. Nếu như trước đây dệt may
Việt Nam chỉ xuất hiện tại các nước Đông Âu thì hiện nay đã xuất hiện ở
khắp nơi trên thế giới đặc biệt là các thị trường Mỹ và EU và trở thành thương
hiệu có uy tín trên thế giới hiện nay.
Sau khi hiệp định dệt may giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, EU được kí kết
mở đường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu dệt may vào hai thị trường này,
dệt may Việt Nam không ngừng phát triển và ngày càng tăng doanh thu cho
đất nước. Tuy nhiên đến năm 2005, khi hiệp định dệt may trong khuôn khổ
WTO chấm dứt thì tình hình xuất khẩu dệt may Việt Nam đã có nhiều biến
động và gặp rất nhiều khó khăn.
Là một công ty hoạt động xuất nhập khẩu dệt may mới thành lập, công ty
TNHH Thương mại quốc tế Việt Phượng cũng không tránh khỏi những khó
khăn trong thời kỳ “hậu hạn ngạch’. Nhằm nghiên cứu những khó khăn của
Việt Nam và công trong thời kì hậu hạn ngạch và những thách thức mới của
dệt may Việt Nam và công ty trong thời gian tới, Tôi đã nghiên cứu và hoàn
thành dề tài : “ Tác động của việc chấm dứt của hiệp định dệt may trong
khuôn khổ WTO đối với hoạt động xuất nhập khẩu của công ty TNHH
Thương mại quốc tế Việt Phượng".
Tôi xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ đã giúp đỡ tôi rất
nhiều trong việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
1
Chương I: Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam trong thời gian qua
I. Khái quát chung về hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO
1. Lịch sử hình thành hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO
Ngay từ những năm đầu của hệ thống thương mại đa phương, đánh dấu
bằng sự ra đời của tổ chức GATT, tiền thân của WTO, năm 1947, ngành dệt
may đã là một vấn đề khúc mắc trong các vòng thương thuyết nhằm tự do hoá
các luồng thương mại. Trong hơn 30 năm, ngành này không được điều tiết bởi
các qui tắc chung áp dụng cho mậu dịch hàng hoá mà bởi các chế độ riêng:
các Hiệp định ngắn hạn về mậu dịch quốc tế bông sợi (Short Term
Arrangement regarding International Trade in Cotton textiles - STA), 1961,
Hiệp định dài hạn về mậu dịch quốc tế bông sợi (Long Term Arrangement
regarding International Trade in Cotton textiles - LTA), 1962-1973, và Hiệp
định về các loại sợi (Arrangement regarding International Trade in Textiles,
thường gọi tắt là Multifibre Arrangement - MFA), 1974-1994. Từ năm 1995,
ngành dệt may được điều tiết bởi Hiệp ước về dệt may (Agreement on
Textiles and Clothing - ATC), một trong những hiệp ước ký kết sau vòng
thương thảo Uruguay Round, thay thế hiệp định MFA và qui định những biện
pháp chuyển tiếp nhằm đưa toàn bộ ngành dệt may vào khung pháp lý chung
của WTO.
Để phân tích diễn tiến của khung pháp lý từ hiệp định STA đến Hiệp ước
ATC, chúng ta điểm sơ qua bối cảnh chung của thời kỳ ấy. Trong những năm
ngay sau đệ nhị thế chiến, đa số các luồng thương mại quốc tế bị chi phối bởi
nhiều chế độ quốc gia khác nhau và phức tạp. Một số nước phát triển viện lý
do cán cân thanh toán gặp khó khăn sau chiến tranh để áp dụng thuế suất cao,
thủ tục thuế quan nặng nề, và rất nhiều biện pháp hạn chế số lượng nhập
khẩu. Từ những năm 1950 trở đi, các hàng rào mậu dịch dần dần được hạ
xuống để tiến đến tự do hoá thương mại qua các vòng thương thuyết trong
2
khuôn khổ tổ chức GATT. Song song với xu hướng này và sự phục hồi của
cán cân thanh toán trong các nước phát triển, Nhật Bản cũng tham gia trở lại
vào thương mại dệt may thế giới. Cùng lúc, một số nước nghèo bắt đầu xuất
khẩu hàng dệt và trong chừng mực ít hơn, các hàng may mặc. Nhờ nhân công
và nguyên liệu rẻ, các nước này nhanh chóng xuất ngày càng nhiều các hàng
dệt may bằng bông sợi sang các nước phát triển, cạnh tranh ồ ạt với ngành sản
xuất nội địa của họ. Trước nguy cơ lỗ lã, phá sản đe dọa việc làm của cả một
ngành sản xuất, gây ra căng thẳng trong xã hội, một số nước phát triển thương
thuyết song phương với 4 nước xuất khẩu chính lúc ấy - Nhật, Hồng Kông,
Ấn Độ và Pakistan - để ép họ phải tự giới hạn lại. Những thoả thuận "hạn chế
xuất khẩu tự nguyện" (voluntary export restraint) này trở thành biện pháp phổ
biến để ngăn chặn nhập khẩu, không chỉ cho hàng dệt may mà còn trong
nhiều ngành khác.
Năm 1959, theo yêu cầu của Bộ trưởng tài chánh Mỹ Douglas Dillon, tổ
chức GATT bắt đầu họp bàn về vấn đề "nhập khẩu tăng vọt trong thời gian
ngắn cho vài mặt hàng và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế,
chính trị và xã hội trong nước nhập khẩu". Năm 1960, các thành viên GATT
công nhận hiện tượng "xáo trộn thị trường" (market disruption), định nghĩa
như gồm một số điều kiện cụ thể, cho phép nước nhập dùng biện pháp phòng
chống (safeguard) để bảo vệ ngành sản xuất nội địa. Hai câu đáng để ý trong
các điều kiện này là "nhập khẩu xuất phát từ một số nguồn cụ thể" và "sự
khác biệt về giá cả giữa hàng nhập và hàng nội không do nước xuất khẩu bán
phá giá" (dumping). Nói cách khác, một là các nước nhập có thể áp dụng biện
pháp phòng chống đối với một hoặc vài nước, một cách chọn lọc, trong khi
theo điều XIX của Hiệp ước GATT, các biện pháp này phải nhắm tất cả mọi
nguồn, không phân biệt. Hai là họ có thể phòng chống ngay cả khi nước xuất
khẩu không vi phạm qui tắc về bán phá giá.
Năm 1961, để vận động cho đạo luật Trade Act 1962, chính phủ Mỹ đề
xướng một hội nghị các nước xuất khẩu hàng dệt trong khuôn khổ của GATT.
3
Kết quả của hội nghị oái oăm này là Hiệp định STA, thực ra là pháp lý hoá
việc vi phạm các nguyên tắc của GATT, dẫu là ngắn hạn như nói rõ trong tên
gọi và chỉ có hiệu lực một năm. STA cho phép các nước xuất khẩu, đơn
phương hoặc qua thoả thuận song phương, ấn định hạn ngạch (quota) để giới
hạn nhập khẩu khi có nguy cơ "xáo trộn thị trường".Các cuộc thương thuyết
vẫn tiếp tục, và năm 1962, STA được thay thế bởi LTA, hiệp định dài hạn vì
các nước liên can công nhận đây là một vấn đề cần phải giải quyết lâu dài.
LTA có hiệu lực 5 năm và để bù lại, các hạn ngạch bắt buộc phải được nâng
cao và tăng 5% mỗi năm. Hiệp định này được gia hạn năm 1967 và năm
1970. Tháng 12. 1972, GATT hoàn tất một cuộc điều tra nghiên cứu tình hình
dệt may. Trên cơ sở bản báo cáo này và các thương thuyết sau đó, LTA được
thay thế bởi hiệp định MFA áp dụng từ tháng 1.1974.
Hai hiệp định STA và LTA chỉ nhắm hàng bông sợi vì thời ấy các nước
đang phát triển chỉ xuất khẩu loại hàng đó. Một trong những lý do sản xuất
sợi hoá học tăng nhanh trong các nước phát triển cũng vì các nước này muốn
tránh bị lệ thuộc vào một nguyên liệu tập trung ở thế giới thứ ba, không kể là
sợi hoá học ngày càng được dùng cho đủ mọi ứng dụng tiên tiến và dựa vào
một nguyên liệu rẻ và dồi dào, tưởng như có thể khai thác vô tận, cho đến
cuộc khủng hoảng của dầu hoả năm 1973. Cho đến lúc ấy, nhiều người nghĩ
rằng sợi hoá học sẽ rốt cuộc loại hẳn các sợi tự nhiên khỏi thị trường. Nhưng
chính khuynh hướng này cũng tác động lên các nước đang phát triển, họ cũng
muốn gia tăng giá trị xuất khẩu của mình và bắt đầu tham gia vào ngành vải
sợi hoá học. Do đó hiệp định MFA không chỉ chi phối sợi bông mà còn áp
dụng cho cả len và sợi hoá học, vì thế mới gọi là multifibre.
2. Nội dung
2.1. Hiệp ước MFA
Như hai hiệp định trước, MFA cho phép áp đặt hoặc duy trì hạn ngạch,
với điều kiện phải gia tăng 6% một năm. Ngoài ra, trước khi có thể viện lý do
là thị trường bị xáo trộn, các nước nhập khẩu phải hội ý với nước xuất khẩu
4
và tuân theo một số điều kiện và chuẩn ghi trong MFA. Một Cơ quan Kiểm
soát Hàng dệt (Textiles Surveillance Body - TSB) được thành lập để quản lý
hiệp định và giám sát sự thi hành. Các nước áp đặt hạn ngạch phải thông báo
mỗi biện pháp mới lên TSB và hàng năm báo cáo tình hình. Cơ quan TSB
cũng có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp, và hàng năm báo cáo hoạt động
của mình lên Ủy ban Hàng dệt (Textiles Committee) của GATT.
Vì MFA đi ngược lại hai qui tắc căn bản của GATT là trong suốt và
không phân biệt đối xử, và nằm ngoài khung pháp lý chung nên tuy được
quản lý bởi GATT, chỉ áp dụng cho các nước liên can chứ không cho toàn thể
các nước thành viên. Cũng vì yếu tố biệt lệ này mà Trung Quốc, tuy không là
thành viên, cũng tham gia, từ đầu thập niên 1980. MFA được gia hạn 4 lần,
năm 1977, 1981, 1986 và 1991, sau khi được thương thuyết lại và mỗi lần đều
kèm theo nhiều điều lệ mới. Trong những năm cuối, tham gia MFA có 8 nước
phát triển ("nước nhập khẩu") - Áo, Canada, Cộng đồng kinh tế châu Âu
EEC, Mỹ, Phần Lan, Nhật, Thụy Sĩ và Na Uy-, và 36 nước đang phát triển,
với tư cách nước xuất khẩu. Trên 8 nước nhập khẩu này, chỉ có Nhật và Thụy
Sĩ là không hề áp dụng hạn ngạch. Trong 21 năm thi hành, từ 1974 đến 1994,
MFA thật ra đã là công cụ của các nước giàu ngăn chặn nhập khẩu từ các
nước nghèo hơn là "mở rộng thương mại, giảm các hàng rào mậu dịch và dần
dần tự do hoá mậu dịch quốc tế về hàng dệt, cùng lúc điều tiết sự phát triển
của luồng thương mại này và tránh các hậu quả gây xáo trộn thị trường và
ngành sản xuất trong các nước nhập khẩu cũng như xuất khẩu", như mục tiêu
chính thức đề ra. Các hạn ngạch được thương lượng trên cơ sở song phương,
thường xuyên xem xét lại, và tỷ lệ gia tăng thường thấp hơn con số 6% qui
định trong MFA.
Do đó các nước xuất khẩu không ngừng đòi hỏi phải bãi bỏ chế độ hạn
ngạch này và cơ sở pháp lý của nó. Vấn đề dệt may là một trong những đề tài
khúc mắc của vòng thương thuyết Uruguay, và các nước nghèo cũng chỉ đồng
ý với một số nhượng bộ cho hai Hiệp ước GATS (dịch vụ) và TRIPs (sở hữu
5
tri thức) với điều kiện các nước giàu cũng phải nhượng bộ về mặt nông
nghiệp và dệt may. Một trong những thoả nhượng này là tuy không chấm dứt
ngay năm 1994, chế độ MFA phải được thay thế bằng một cơ chế ràng buộc
tất cả mọi thành viên như các qui chế khác của WTO và chuẩn bị cho việc sát
nhập ngành dệt may vào khung pháp lý chung của WTO. Cơ chế này, tức
Hiệp ước ATC, chỉ là công cụ cho một giai đoạn chuyển tiếp và không thể
được dùng để kéo dài một tình trạng ngoại lệ đã quá lâu. Do đó điều lệ 9 của
ATC khẳng định là Hiệp ước sẽ chấm dứt "ngày đầu tiên của tháng thứ 121
sau khi Hiệp ước WTO ban hành, khi ấy ngành dệt may sẽ hoàn toàn sáp nhập
vào Hiệp ước GATT 1994", tức là ngày 1.1.2005. Và nhất là Hiệp ước sẽ
không được gia hạn ("There shall be no extension of this Agreement").
2.2.Hiệp ước ATC
Hiệp ước ATC có những điểm chính sau đây:
a) phạm vi rộng vì bao gồm sợi, vải, thành phẩm (made-up articles) và
quần áo, tức là hầu hết ngành may dệt, chỉ loại trừ các nguyên liệu thô,
b) một lịch trình sát nhập dần dần những mặt hàng ấy vào khuôn khổ các
điều lệ của Hiệp ước GATT 1994, và song song,
c) một lịch trình tự do hoá qua đó các hạn ngạch được gia tăng theo từng
giai đoạn cho đến khi được bãi bỏ,
d) một cơ cấu phòng chống tạm thời đặc định (specific transitional
safeguard) cho trường hợp các ngành sản xuất nội địa có thể bị tổn hại trong
thời gian quá độ.
e) một Cơ quan Giám sát Hàng dệt (Textiles MonitoringBody -TMB)
được thành lập để đảm bảo là mọi qui định được tuân thủ.TMB có nhiệm vụ
báo cáo hoạt đồng và tiến triển của các lịch trình lên Hội đồng mậu dịch hàng
hoá (Council for Trade in Goods -CTG), là bộ phận của WTO kiểm soát sự
thi hành Hiệp ước ATC. Khác với thời MFA, các tranh chấp không thuộc
thẩm quyền của TMB mà phải đưa lên Cơ quan Giải quyết Tranh chấp
(Dispute Settlement Body - DSB).
6
Tuy WTO đã có một hiệp ước riêng cho các biện pháp phòng chống
(Agreement on Safeguards - SG) nhưng Hiệp ước ATC vẫn dành một điều
khoản (điều lệ 6) cho phép các nước nhập khẩu dùng đến biện pháp này theo
điều kiện khác, ngoại lệ so với Hiệp ước SG: trong khi SG qui định là các
biện pháp phòng chống phải áp dụng cho tất cả mọi nguồn, theo nguyên tắc
không phân biệt đối xử, ATC cho phép nước nhập khẩu áp dụng một biện
pháp "đặc định", tức là chỉ nhắm một đối tượng, nếu xác định được là đối
tượng ấy đã gây ra tổn hại cho mình tuy rằng sự gia tăng nhập khẩu là từ mọi
nguồn. Lý do là vì ATC không cho phép áp đặt hạn ngạch mới, nên các nước
ngày trước không tham gia MFA (phi hạn ngạch) vẫn phải có cách tự vệ. Cơ
cấu phòng chống ATC vận hành như sau: nước nhập khẩu, khi thấy cần bảo
vệ thị trường của mình, yêu cầu nước xuất khẩu hội ý với mình. Hai bên có
thể thoả thuận một biện pháp giới hạn nhập khẩu. Thoả thuận này cũng như
yêu cầu hội ý đều phải được thông báo lên TMB. Nếu không đi đến thoả
thuận, nước nhập khẩu có thể trình lên TMB một đề nghị giới hạn đơn
phương. TMB có 30 ngày để điều tra và đưa ra khuyến cáo. Nếu hai bên vẫn
không đồng ý thì có thể kiện nhau trước DSB. Vì mọi giai đoạn đều đặt dưới
sự giám sát của TMB, một cơ quan đa phương, nên cơ cấu này, tuy hãy còn vi
phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử, ít ra cũng trong suốt hơn các hạn
ngạch song phương, chỉ có hai nước liên can là biết với nhau. Mặt khác, để
tránh việc nước nhập khẩu lạm dụng và biến phòng chống thành một thứ hạn
ngạch "chui", các biện pháp này cũng "tạm thời" tức là chỉ có thể áp dụng
trong 3 năm, không gia hạn. ATC dùng chữ "transitional" thay vì
"temporary" cũng để nhắc lại yếu tố quá độ của cả Hiệp ước.
Từ 1995 đến 2001, có 53 biện pháp phòng chống thông báo lên TMB,
trong đó một nửa (26) là do Mỹ, phần còn lại do các nước châu Mỹ la tinh.
Điều đáng nói là trong năm đầu, 1995, đã có 23 biện pháp, toàn bộ là của Mỹ,
khiến ai cũng phải hoảng hốt, từ các nước xuất khẩu đến các nhà quan sát và
cả TMB. Nhưng sau đó thì ngoài 3 trường hợp của Mỹ và 1 của Ba Lan (năm
7