Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

tác động của hành lang kinh tế bắc – nam trong hợp tác kinh tế tiểu vùng sông mekong mở rộng tới
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
XNK Xuất nhập khẩu
XK Xuất khẩu
NK Nhập khẩu
TMQT Thương mại quốc tế
ADB Ngân hàng phát triển châu Á (Asian Development Bank )
GMS Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (Greater Mekong Subregion)
EHP Chương trình thu hoạch sớm trong khuôn khổ ACFTA
ACFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of South Asian
Nations)
NDT Nhân dân tệ
VNĐ Việt Nam đồng
USD Đồng Đôla Mỹ
CSHT Cơ sở hạ tầng
KTXH Kinh tế xã hội
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng
về văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội. Quan hệ về chính trị - ngoại giao, kinh tế -
thương mại và giao lưu văn hoá giữa hai nước đã có từ lâu đời và đã trở thành mối
quan hệ truyền thống bền vững. Tuy nhiên, qua các thời kỳ lịch sử cũng có những
biến động về chính trị - xã hội làm ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế thương mại giữa
hai nước nhưng chưa bao giờ làm mất đi quan hệ kinh tế đó, trái lại hoạt động kinh
tế, thương mại giữa hai nước ngày càng có điều kiện thuận lợi để phát triển, phù
hợp với xu thế hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Từ khi
bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế chính trị của hai nước
phát triển nhanh chóng và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Hiện nay, Trung
Quốc đã trở thành bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam.
Hoạt động biên mậu của hai nước do có nhiều thuận lợi về địa lý cũng đã
hình thành và phát triển từ rất lâu trong lịch sử quan hệ kinh tế - thương mại của hai
nước. Sự phát triển quan hệ thương mại Việt – Trung nói chung và quan hệ biên
mậu nói riêng phù hợp với lợi ích của hai nước, phù hợp với xu hướng của thời đại
và xu hướng tăng cường hợp tác trong khu vực. Có thể nói đẩy mạnh quan hệ
thương mại qua biên giới Việt - Trung đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai
nước, góp phần làm tăng thu ngân sách, nâng cao đời sống nhân dân, làm thay đổi
bộ mặt KTXH và văn hoá của nhân dân hai bên vùng biên giới. Mặc dù trong thời
gian qua hoạt động kinh tế thương mại biên giới Việt - Trung đã mang lại những
thành công to lớn, đã phát huy được tiềm năng, thế mạnh của kinh tế cửa khẩu biên
giới, góp phần vào công cuộc CNH – HĐH của mỗi nước, song bên cạnh những
thành tựu đã đạt được vẫn còn không ít những hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Việc
xây dựng hành lang kinh tế Bắc – Nam trong phạm vi hai nước Việt Nam – Trung
Quốc đã có tác động to lớn đến quan hệ thương mại của hai nước theo cả chiều
hướng tích cực và tiêu cực. Để đẩy mạnh hoạt động thương mại trên khu vực biên
giới này, trong những năm qua, cả hai nước đã có nhiều cải cách trong chính sách
thương mại, cũng như đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương trong khuôn
khổ hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mekong mở rộng và ASEAN – Trung Quốc.
Ý tưởng hành lang kinh tế Bắc Nam được Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB) đưa ra trong khuôn khổ hợp tác Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS)
cùng với hai hành lang kinh tế khác nhằm mục đích tạo ra mối liên kết phát triển,
đẩy mạnh hợp tác kinh tế thương mại giữa các nước trong khu vực GMS. Đến tháng
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
5/2004, ý tưởng hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế” là sáng kiến của Thủ
tướng Việt Nam nêu lên trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc và
nhận được sự đồng tình của Thủ tướng Trung Quốc, trong đó hai hành lang kinh tế
này trùng với hai nhánh của hành lang kinh tế Bắc - Nam (GMS). Mục đích chủ yếu
của hai hành lang kinh tế Việt – Trung này là thúc đẩy hợp tác giữa các tỉnh biên
giới miền Bắc Việt Nam với các tỉnh Tây Nam Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực:
kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, du lịch…
Nhận thức được vai trò to lớn và tính cần thiết của việc đẩy mạnh hợp tác
biên mậu giữa hai nước thông qua sự phát triển của các hành lang kinh tế trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội của hai nước nên em đã chọn đề tài nghiên cứu “Tác
động của hành lang kinh tế Bắc – Nam trong Hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông
Mekong mở rộng tới thương mại Việt Nam – Trung Quốc” nhằm đánh giá những
tác động của hai hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và
Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng, nằm trong khuôn khổ hợp tác GMS
và hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế” Việt – Trung, tới quan hệ thương
mại Việt Nam – Trung Quốc trên cả hai mặt thành tựu và hạn chế, để đưa ra một số
khuyến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế thương mại trên khu vực hai
hành lang kinh tế này.
Nội dung của đề tài nghiên cứu bao gồm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận để đánh giá tác động của hành lang kinh tế đến
thương mại quốc tế.
Chương II: Đánh giá tác động của hành lang kinh tế Bắc – Nam trong
GMS đến thương mại Việt Nam – Trung Quốc.
Chương III: Các khuyến nghị về chính sách nhằm thúc đẩy thương mại
quốc tế trong hành lang kinh tế Bắc Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS.TS Nguyễn
Ngọc Sơn và các cán bộ nghiên cứu trong Ban Các vấn đề quốc tế, Viện Chiến lược
phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu không tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Em rất mong PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và các anh chị trong
Ban đóng góp ý kiến để em tiếp tục hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Mai Thị Minh Nguyệt
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA
HÀNH LANG KINH TẾ ĐẾN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
I. Cơ sở lý luận về hành lang kinh tế
1. Khái niệm về hành lang kinh tế
Hành lang kinh tế không phải là một khái niệm mới trên thế giới. Trước khi
ADB đưa ra khái niệm này như một sáng kiến để thúc đẩy hợp tác kinh tế ở Tiểu
vùng sông Mekong mở rộng, trên thế giới đã biết đến nhiều hành lang kinh tế ở Mỹ,
châu Âu, châu Phi… như là một tiếp cận phát triển ở những khu vực địa lý liền kề,
lấy các trục tuyến giao thông làm cở sở để kết nối các vùng nhằm xây dựng các
khuôn khổ hợp tác về phát triển kinh tế - xã hội.
Ví dụ: theo hệ thống phát triển đường cao tốc Appalachian ở West Virgina
(Mỹ) người ta xây dựng 26 hành lang kinh tế nhằm cải thiện vị trí địa lý của khu
vực Appalachian. Hoặc hành lang kinh tế Tây Bắc Canada lấy đường cao tốc
Yellowhead 16 làm xương sống nối bốn tỉnh miền Tây Bắc Canada với Thái Bình
Dương nhằm phát huy tối đa lợi ích kinh tế của tuyến đường trục này, hành lang
kinh tế này đã tạo ra bước ngoặt phát triển cho những khu vực nằm trong hành lang
lang…
Hành lang kinh tế là một không gian kinh tế có giới hạn về chiều dài và
chiều rộng, liên vùng lãnh thổ hoặc liên quốc gia, dựa trên việc thành lập một hoặc
nhiều tuyến giao thông kết hợp với những chính sách kinh tế nhất định để thúc đẩy
phát triển kinh tế trên toàn không gian đó.
Hành lang kinh tế thường được thành lập để đẩy mạnh sự hội nhập về kinh tế
giữa những vùng kém phát triển hơn và thường là vùng sâu vùng xa với những vùng
phát triển hơn và thường là vùng duyên hải. Một bên muốn tìm đường ra biển, một
bên muốn tìm đường tiếp cận trung tâm. Bản thân từ "hành lang" trong quy hoạch
giao thông và quy hoạch vùng lãnh thổ có nghĩa là tuyến giao thông kết nối một
vùng sâu trong nội địa với cảng biển trong nước hoặc nước khác.
Hành lang kinh tế là một tuyến nối liền các vùng lãnh thổ của một hoặc
nhiều quốc gia nhằm mục đích liên kết, hỗ trợ lẫn nhau để khai thác có hiệu quả lợi
thế so sánh của các khu vực địa lý – kinh tế nằm trên cùng một dải theo trục giao
thông thuận lợi nhất đối với sự lưu thông hàng hóa và liên kết kinh tế giữa các vùng
bên trong, cũng như các vùng cận kề với hành lang.
Tuyến liên kết này được hình thành trên cơ sở kết cấu hạ tầng đa dạng có khả
năng tạo ra sự phát triển của nhiều ngành kinh tế, làm thay đổi căn bản diện mạo
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của một vùng nhất định thuộc một hoặc nhiều quốc gia mà hành lang kinh tế đi qua,
và góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đó.
Trên thực tế, thuật ngữ “hành lang kinh tế” được dùng chủ yếu để chỉ một
khu vực rộng lớn trải dài hai bên một tuyến đường giao thông huyết mạnh đã có
hoặc chuẩn bị được xây dựng. Tuyến đường trục này cho phép giao thông thuận
tiện đến các điểm đầu, cuối và bên trong hành lang phát triển đó, có vai trò đặc biệt
quan trọng để liên kết toàn khu vực và thúc đẩy phát triển kinh tế dọc theo hành
lang này.
Để hiểu rõ hơn khái niệm hành lang kinh tế chúng ta cần hiểu thêm về các cơ
chế hợp tác khu vực. Có hai cơ chế hợp tác kinh tế khu vực chủ yếu: chính thức và
không chính thức.
Cơ chế chính thức bao gồm các hình thức như Khu vực mậu dịch tự do
(FTA), Liên minh thuế quan (kiểu liên minh Nga - Belarus...), Thị trường chung
(kiểu EU).
Cơ chế phi chính thức gồm các hình thức như Tam giác phát triển, Khu vực
tự do xuyên quốc gia, Hành lang kinh tế. Trong đó cơ chế không chính thức có một
số đặc thù như chỉ bao gồm các vùng (địa phương) thuộc các nước khác nhau chứ
không bao gồm thực thể quốc gia; các thành viên duy trì quan hệ thương mại và đầu
tư với thị trường bên ngoài khu vực; không có những chính sách chung đồng nhất,
nhưng gián tiếp cắt giảm các biện pháp thuế quan và phi thuế quan tạo điều kiện
thuận lợi cho sự tự do hoá thương mại, đầu tư, giao thông, nhập cư; thúc đẩy sự
phát triển tại khu vực biên giới của các nước thành viên...
Như vậy, hành lang kinh tế là một dạng của cơ chế hợp tác khu vực phi
chính thức, nó bao gồm các vùng, địa phương thuộc các nước khác nhau trong cùng
một khu vực địa lý. Các thành viên trong hành lang sử dụng các chính sách thương
mại và đầu tư để thúc đẩy phát triển tại khu vực “hành lang” của mình.
2. Đặc điểm của hành lang kinh tế
Hành lang kinh tế ngoài những đặc điểm tương tự với các hình thức hợp tác
kinh tế phi chính thức khác còn có một số điểm khác biệt sau:
Thứ nhất, hành lang là một khu vực địa lý xác định và thường được hình
thành dựa trên cơ sở một tuyến động mạch giao thông liên vùng sẵn có.
Thứ hai, hành lang kinh tế nhấn mạnh các sáng kiến song phương hơn là các
sáng kiến đa phương, tập trung vào các nút chiến lược đặc biệt là tại biên giới giữa
hai nước.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thứ ba, hành lang kinh tế đòi hỏi phải có sự quy hoạch không gian và vật lý
cụ thể trên khu vực các hành lang và vùng lân cận, để tập trung phát triển hạ tầng và
đạt được những hiệu quả thiết thực nhất.
3. Quá trình phát triển của các hành lang kinh tế
- Hành lang giao thông: Là sự hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải, tập
trung vào phát triển các tuyến giao thông ưu tiên, có ý nghĩa quan trọng để liên kết
các vùng hoặc các khu vực với nhau và đẩy mạnh liên kết giao thông vận tải tới các
trung tâm đông dân, khu du lịch và thị trường. Sự hợp tác này sẽ thúc đẩy giao
thương, du lịch và đầu tư
Ví dụ: Trong hành lang kinh tế Bắc – Nam của GMS có 3 tuyến hành lang
vận tải được đầu tư xây dựng là: tuyến Côn Minh tới Bangkok qua Lào hoặc
Myanmar; Côn Minh tới Hà Nội – Hải Phòng; Nam Ninh tới Hà Nội. Hay như dự
án giao thông quan trọng trong hành lang kinh tế Đông Tây là tuyến đưởng thẳng và
liên tục, duy nhất giữa Ấn Độ Dương với Biển Đông…
Các dự án giao thông cũng bao gồm cả nâng cấp hệ thống giao thông đường
thủy nội địa, cảng biển và mạng lưới đường sắt. Nhờ có các hành lang giao thông
này đã cắt giảm chi phí vận tải và thời gian đi lại. Đồng thời hành lang giao thông
cũng tạo ra mối liên kết giữa các vùng kinh tế với nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự hợp tác phát triển kinh tế.
- Hành lang giao thông đa phương thức: Vận tải đa phương thức
(Multimodal transport) quốc tế hay còn gọi là vận tải liên hợp (Conbined transport)
là phương thức vận tải hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau trở
lên, trên cơ sở một hợp đồng vận tải đa phương thức từ một điểm ở một nước, tới
một điểm chỉ định ở một nước khác để giao hàng. Hiện nay, vận tải đa phương thức
là phương thức vận tải đang được phát triển mạnh trên thế giới có tác dụng thúc đẩy
sự phát triển buôn bán quốc tế, đáp ứng được yêu cầu của phương thức giao hàng
"từ kho người bán đến kho của người mua".
Ở Việt nam hàng hoá được vận chuyển theo hình thức vận tải đa phương
thức là các loại hàng được đóng trong container, chủ yếu là những mặt hàng như
quần áo may sẵn, hàng nông sản, hàng đông lạnh và một số mặt hàng tiêu dùng
khác, còn hàng hoá NK là các nguyên liệu gia công như: vải, sợi, len, dạ... hay các
máy móc thiết bị...
Hành lang giao thông đa phương thức là dạng hành lang liên kết giữa các
vùng hoặc khu vực thông qua sự hội nhập các phương tiện vận tải khác nhau.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Hành lang logistics: Hành lang logistics (hay hành lang hậu cần) không
chỉ liên kết giữa các vùng, khu vực, mà còn phối hợp hài hòa khung thể chế của
hành lang để thuận tiện hóa các dòng trao đổi hàng hóa và con người, thông tin
trong cả vùng.
- Hành lang kinh tế: Như đã nói ở trên, một trong những đặc điểm hay điều
kiện quan trọng để hình thành nên hành lang kinh tế, đó là phải trục, tuyến giao
thông huyết mạch, quan trọng, liên kết các vùng. Vì vậy, các hành lang kinh tế
thường được hình thành trên cơ sở các hành lang giao thông, hoặc phát triển hành
lang giao thông sẽ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng, hình
thành và phát triển các hành lang kinh tế. Sự liên kết về tự nhiên và các tiện ích hậu
cần là điều kiện tiên quyết cho phát triển hành lang kinh tế.
“Hành lang kinh tế” muốn phát triển đòi hỏi phải có CSHT kết hợp với các
cơ hội kinh tế. Các cơ hội đó là giao thông và đầu tư, cũng như các nỗ lực của chính
quyền để giải quyết các tác động xã hội hay các tác động khác nảy sinh từ tính kết
nối được tăng cường trên tuyến hành lang.
Mục tiêu đầu tiên cần được chú trọng để phát triển hành lang kinh tế đó là
phát triển một hệ thống giao thông vận tải cho phép giao thương hàng hóa và người
dân đi lại trong vùng mà không tốn kém hay bị trì hoãn. Đổi lại, việc nâng cấp
mạng lưới giao thông sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển vùng.
Do đó, giúp xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế.
II. Thương mại quốc tế và các tiêu chí đánh giá
1. Khái niệm về thương mại quốc tế
1.1. Khái niệm thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế (TMQT) thường được hiểu là sự trao đổi hàng hoá và
dịch vụ qua biên giới giữa các quốc gia hoặc mua bán tại chỗ với người nước
ngoài. Theo nghĩa rộng hơn, TMQT bao gồm sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và
các yếu tố sản xuất qua biên giới giữa các quốc gia. Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) xem xét TMQT bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch
vụ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này,
em chỉ xem xét TMQT dưới góc độ là thương mại hàng hóa hay cụ thể là hoạt động
XNK hàng hóa.
1.2. Hàng hóa trong thương mại quốc tế.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hàng hóa trong thương mại quốc tế có thể chia thành 3 loại:
1.2.1. Sản phẩm hàng hóa hữu hình
Sản phẩm hàng hóa hữu hình trong TMQT bao gồm những loại hàng hóa như
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lương thực thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng… Đây là
bộ phận chủ yếu và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Hoạt động mua bán các loại hàng hóa này được gọi là thương mại hàng hóa.
1.2.2. Sản phẩm hàng hóa vô hình
Sản phẩm hàng hóa vô hình bao gồm các loại sau: các bí quyết công nghệ,
bằng sáng chế phát minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch
vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch… Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng
gia tăng, phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật và việc phát
triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế. Hoạt động mua bán các đối tượng này
được gọi là thương mại dịch vụ.
1.2.3. Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân
công lao động quốc tế và do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc
gia. Có 2 loại hình gia công chủ yếu:
Thứ nhất: Gia công thuê cho nước ngoài. Khi trình độ phát triển của một
quốc gia còn thấp, thiếu vốn, công nghệ, thiếu thị trường thì các doanh nghiệp
thường nhận gia công cho nước ngoài.
Thứ hai: Thuê nước ngoài gia công. Khi quốc gia đã đạt tới một trình độ phát
triển nhất định thì sẽ áp dụng hình thức này.
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2. Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế
Một trong những đặc trưng cơ bản của sự phát triển kinh tế thế giới hiện nay
là quá trình hội nhập mạnh mẽ kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình này, hoạt động
TMQT có vị trí ngày càng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước.
Đối với các nước đang phát triển, hoạt động TMQT trở thành nguồn tích lũy
vốn quan trọng trong giai đoạn đầu của sự nghiệp CNH. Thông qua hoạt động
TMQT sẽ làm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước và mở
rộng các mối quan hệ quốc tế. Hoạt động TMQT tạo điều kiện XK những sản phẩm
có lợi thế so sánh, góp phần cải thiện cán cân thương mại, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ
cho việc NK máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản
xuất trong nước. Có nhiều nước đang phát triển không đủ điều kiện và khả năng để
sản xuất nhiều loại tư liệu sản xuất, do đó việc NK sản phẩm đã góp phần đáp ứng
yêu cầu sản xuất trong nước. Qua đó tạo điều kiện mở rộng thị trường trong và
ngoài nước, nâng cao khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Hoạt động TMQT thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH. Ở các nước đang phát triển, giá trị nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, lao động
trong nông nghiệp chiếm đại bộ phận, hoạt động dịch vụ nhỏ bé, lạc hậu. Phát triển
TMQT sẽ thúc đẩy các mối liên kết ngược và xuôi giữa các ngành, sự phát triển các
ngành trực tiếp XK đã tác động đến các ngành cung cấp đầu vào, thúc đẩy sự phát
triển của các ngành này. Sau đó khi tích lũy được nâng cao, các sản phẩm thô vốn
sử dụng cho XK, lại trở thành nguyên liệu cung cấp đầu vào cho các ngành công
nghiệp chế biến. Sự phát triển của các ngành này lại thúc đẩy sự phát triển công
nghiệp hàng tiêu dùng và các ngành dịch vụ.
Hoạt động TMQT tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng
lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Việc sản xuất sản phẩm
làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn so với thị
trường trong nước. Do đó, các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh phải
dựa vào tiêu chuẩn quốc tế. Thị trường thế giới rộng lớn cũng tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp phát huy được hiệu quả của sản xuất quy mô lớn. Mặt khác, thông
qua hoạt động TMQT sẽ NK được thiết bị và kỹ thuật tiên tiến, tiếp cận được
phương thức sản xuất hiện đại, phương pháp quản lý khoa học. Những người lao
động, cán bộ kỹ thuật và quản lý có điều kiện để học tập bí quyết công nghệ, nâng
cao kỹ năng sản xuất và trình độ quản lý.
Bên cạnh đó, TMQT còn tạo điều kiện nâng cao khả năng tiêu dùng, tăng
mức sống của dân cư. TMQT cho phép người tiêu dùng có thể được tiêu dùng nhiều
Mai Thị Minh Nguyệt – Kế hoạch 48A
9