Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tác động của cộng đồng các dân tộc đến tài nguyên đất và rừng tỉnh Hòa Bình
PREMIUM
Số trang
123
Kích thước
748.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1403

Tác động của cộng đồng các dân tộc đến tài nguyên đất và rừng tỉnh Hòa Bình

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Ngô Văn Quyền – Địa lý học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Miền núi nước ta là một vùng rộng lớn, với nhiều đặc thù về điều kiện tự

nhiên và kinh tế, xã hội. Đây là địa bàn cư trú của hầu hết các dân tộc thiểu

số. Mỗi dân tộc tuỳ theo trình độ phát triển, tập quán sản xuất, văn hoá, tín

ngưỡng dân gian...mà tác động khác nhau tới môi trường và cũng sử dụng tài

nguyên theo cách thức riêng của mình. Một trong những nguyên tắc để xây

dựng xã hội phát triển bền vững là: để cho các cộng đồng dân cư tự quản lý

lấy môi trường của họ. Cho dù ở đâu, các dân tộc ít người đều có một không

gian sinh sống gần gũi với môi trường tự nhiên, hoạt động sống của họ đều

dựa trên việc khai thác tài nguyên địa phương, gắn chặt với vùng núi, vì vậy

khi nguồn tài nguyên thiên nhiên bị phá huỷ có nghĩa là cuộc sống của họ

cũng đang bị đe dọa.

Trong cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc

tế, nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng của đất nước, trong đó có

nguồn tài nguyên đất và rừng ở vùng miền núi được khai thác với quy mô

ngày càng lớn để đáp ứng với nhu cầu tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất

lượng cuộc sống. Các nguồn tài nguyên này do bị khai thác từ rất sớm đã dần

bị cạn kiệt, hiện nay tới mức báo động. Hậu quả tất yếu đã và đang diễn ra đó

là số lượng tài nguyên cũng như chất lượng môi trường sinh thái tiếp tục suy

giảm. Tình trạng này nếu chậm được khắc phục sẽ làm nảy sinh những khó

khăn mới cho cộng đồng các dân tộc sống chủ yếu dựa vào việc khai thác các

nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Thực tế phát triển kinh tế - xã hội ở Hòa Bình không đứng ngoài thực

trạng nói trên của đất nước. Hòa Bình là một tỉnh có cộng đồng các dân tộc đa

dạng, trong đó người Mường chiếm tỉ lệ lớn nhất; người Kinh, người Thái…

chiếm tỉ lệ khá lớn, hầu hết cư trú tại những địa bàn có điều kiện địa lý khó

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khăn, trình độ phát triển thấp. Trong kế sinh nhai lâu đời của mình, cộng đồng

các dân tộc gắn bó mật thiết với đất, với rừng; họ đã đúc kết được không ít

kinh nghiệm bản địa trong quá trình thích ứng với các nguồn tài nguyên hiện

có, với môi trường sinh thái bao quanh. Tuy nhiên yêu cầu cao của sự tăng

trưởng kinh tế và sự gia tăng dân số đang gây sức ép ngày càng lớn đến tài

nguyên, môi trường và chất lượng cuộc sống của cộng đồng các dân tộc ở tỉnh

này. Nếu mối quan hệ giữa sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng dân số với việc

khai thác tài nguyên thiên nhiên không được giải quyết tốt thì đời sống cộng

đồng các dân tộc chậm được cải thiện, khó tránh khỏi nguy cơ cạn kiệt tài

nguyên, khủng hoảng môi trường.

Từ thực trạng nói trên đòi hỏi các nhà quản lí, các nhà khoa học, trong

đó có các nhà địa lý phải quan tâm nghiên cứu lí luận, tổng kết kinh nghiệm

thực tiễn nhằm tìm ra giải pháp sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên nói

chung , trước hết là nguồn tài nguyên đất và rừng, hướng tới mục tiêu phát

triển bền vững cho cộng đồng các dân tộc tỉnh Hòa Bình.

Với những lí do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Tác động của cộng

đồng các dân tộc đến tài nguyên đất và rừng tỉnh Hòa Bình”

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong vài ba thập kỷ gần đây, do sức ép về dân số và sự phát triển kinh tế,

nhiều nguồn tài nguyên trên Trái đất đứng trước nguy cơ cạn kiệt, chất lượng

môi trường bị giảm sút nghiêm trọng. Hàng loạt các vấn đề như suy thoái đa

dạng sinh học, suy giảm tài nguyên đất và nước ngọt, tài nguyên rừng bị tàn

phá... đang là thách thức đối với sự tồn tại của loài người và Trái đất. Vì vậy,

vấn đề quản lý tài nguyên, phát triển môi trường bền vững được nhiều nước

trên thế giới chọn làm tiêu chí phát triển của toàn xã hội. Nhiều công trình

khoa học nghiên cứu về những vấn đề này đã được công bố như : “Dân số -

môi trường : Một cái nhìn phổ quát” của Ban thư ký Liên hiệp quốc, “Dân số

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- môi trường và sự phát triển bền vững” của Uỷ ban các vấn đề kinh tế Châu

Á - Thái Bình Dương…

Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển, Hội nghị môi

trường khu vực được tổ chức định kỳ hoặc thường niên đã đề xuất các hướng

nghiên cứu về chủ đề môi trường, tài nguyên, bảo vệ môi trường trên phạm vi

toàn thế giới. Các hội nghị này đều ra tuyên bố và xuất bản các loại văn bản

quan trọng. Ví dụ như : Tuyên bố Hội nghị Rio de Janeiro (1992), Tuyên bố

Hội nghị Johannesburg (2002)…

Ở Việt Nam, những vấn đề về mối quan hệ giữa con người và tài nguyên,

môi trường đã được nghiên cứu trong vài thập kỷ gần đây, nhất là từ năm

1986, khi Việt Nam bắt đầu thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước.

Hàng loạt các công trình cả về lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu về vấn đề sử

dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, đặc biệt là vùng miền núi dân tộc

đã được công bố.

Vùng núi Việt Nam chiếm 3/4 diện tích trong cả nước, là nơi cư trú của đại

bộ phận các dân tộc thiểu số, đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều nguồn tài

nguyên có giá trị. Đây là vùng có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội. Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu đánh giá về

thực trạng sử dụng tài nguyên và sự biến đổi kinh tế bước đầu của khu vực

miền núi. Điển hình là các công trình nghiên cứu của tác giả Lê Văn Khoa :

"Miền núi và phát triển bền vững", tác giả Bế Văn Đẳng và các cộng tác viên

: "Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính sách đối với các dân tộc

thiểu số trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội miền núi", tác giả Phạm Văn

Vang : "Kinh tế miền núi và các dân tộc: thực trạng, vấn đề và giải pháp", tác

giả Trần Đức Viên : "Nông nghiệp bền vững, lối đi cho tương lai" và "Hệ

canh tác vùng cao nông nghiệp miền núi", tác giả Đào Thế Tuấn : "Sự phát

triển hệ thống nông nghiệp miền núi phía Bắc"... Một điều mới mẻ là một số

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chuyên gia nước ngoài đã trực tiếp tham gia nghiên cứu về miền núi Việt

Nam như các tác giả N. Jamieson, Tenry Rambo, L.T. Cúc trong công trình:

"Những khó khăn trong công cuộc phát triển miền núi ở Việt Nam".

Xuất phát từ bản chất của mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên

trong thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, Bộ Khoa học Công

nghệ và Môi trường đã xuất bản cuốn sách: “Một số vấn đề xã hội và nhân

văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam”

(Hà Huy Thành chủ biên). Trong đó, tác giả đề cập đến vấn đề: vùng miền núi

và dân tộc ít người, những phong tục tập quán và việc sử dụng hợp lý tài

nguyên. Tháng 4 năm 2006, tác giả Hoàng Hữu Bình đã có công trình nghiên

cứu: “Những tác động của yếu tố văn hoá - xã hội trong quản lý nhà nước đối

với tài nguyên, môi trường trong quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá”,

trong đó các tác giả đã đề cập đến tác động của văn hoá vùng và văn hoá tộc

người, của tôn giáo tín ngưỡng, của tri thức dân gian… trong quản lý nhà

nước đối với tài nguyên và môi trường. một số nhµ khoa häc th× tiếp cận vấn

đề từ góc độ của một cộng đồng kết hợp với kinh nghiệm thực tế của địa

phương. Nổi bật là công trình nghiên cứu: “Vai trò của cộng đồng các dân

tộc miền núi phía Bắc trong sử dụng tài nguyên đất rừng” của tác giả Vương

Xuân Tình, trong đó tác giả đã khẳng định: nói tới vai trò của cộng đồng là

phải chú ý đến vai trò tự quản của nó trên cơ sở vận hành của các luật tục;

luật tục được xem như công cụ điều khiển các hoạt động của một đơn vị dân

cư, tuỳ theo từng bối cảnh xã hội mà cộng cụ này có tác dụng đến mức độ

nào. Với đất rừng, các cá nhân chỉ có quyền sử dụng, thừa kế mà không được

đem bán hoặc chuyển nhượng. Trong cộng đồng, trưởng bản là người có trách

nhiệm cao nhất trong việc bảo vệ và quyết định sử dụng đất, rừng. Công trình

“Một số tri thức dân gian và nghi lễ tín ngưỡng liên quan đến canh tác nương

rẫy của người Mông Trắng ở bản Mô Cổng, xã Phỏng Lái, huyện Thuận

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Châu, tỉnh Sơn La” của tác giả Trần Thị Thu Thủy (2004) · Nghiên cứu về tri

thức bản địa của một tộc người tại một địa phương cụ thể và đã khẳng định

được trong quá trình đối chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để sinh tồn và phát

triển, các tộc người thiểu số nói chung, tộc người Mông nói riêng không

ngừng thích nghi với môi trường tự nhiên, xã hội và tạo dựng được những

phương thức hoạt động kinh tế hợp lý, hữu hiệu. Trong đó cách khai thác và

sử dụng đất truyền thống đã tiếp thu thêm nhiều kỹ thuật mới vừa hòa nhập

với kinh tế thị trường vừa bảo vệ được đất sản xuất.

Những công trình nêu trên rất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn, là cơ sở

quan trọng để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tác động của cộng

đồng các dân tộc đến tài nguyên đất và rừng tỉnh Hòa Bình”.

3. Mục tiêu của đề tài

Đề tài phân tích những tác động của cộng đồng các dân tộc đến nguồn

tài nguyên đất và rừng, đề xuất các quan điểm, giải pháp phát triển kinh tế -

xã hội, sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên cho cộng đồng các dân tộc tỉnh

Hòa Bình theo hướng phát triển bền vững.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan cơ sở lí luận và thực tiễn về cộng đồng các dân tộc với

việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên.

- Phân tích đặc điểm của cộng đồng các dân tộc và nguồn tài nguyên

đất, rừng ở tỉnh Hòa Bình.

- Phân tích thực trạng sử dụng và đánh giá những tác động đến tài

nguyên đất và rừng của cộng đồng các dân tộc ở Hòa Bình.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng hợp lí tài đất và của cộng

đồng các dân tộc theo hướng phát triển bền vững.

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Quan điểm nghiên cứu

- Quan điểm phát triển bền vững: việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên

phải gắn liền với chiến lược phát triển bền vững. Khai thác tài nguyên sao cho

hiệu quả nhất, đem lợi ích cho đồng bào các dân tộc và cho cả nước là điều

cần được nghiên cứu. Những gì thiên nhiên ban tặng cho chúng ta, chúng ta

nên tận dụng, nhưng phải sử dụng một cách hợp lí và không làm ảnh hưởng

đến thế hệ tương lai.

- Quan điểm tổng hợp lãnh thổ: các hoạt động kinh tế trong vùng lãnh

thổ là tổng hợp của nhiều điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và phù

hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng dân tộc. Mỗi

dân tộc tùy theo trình độ phát triển, tập quán sản xuất và văn hóa mà tác động

khác nhau đến môi trường cũng như việc sử dụng tài nguyên theo cách thức

của mình.

- Quan điểm hệ thống: Hòa Bình được xem như một hệ thống lãnh thổ

kinh tế - xã hội bao gồm hệ thống cấp thấp hơn – các đơn vị lãnh thổ hành

chính: huyện, xã, bản, tiểu vùng; trong đó cộng đồng các dân tộc và tài

nguyên có quan hệ tác động qua lại.

- Quan điểm lịch sử: sự phát triển của cộng đồng các dân tộc và mối

quan hệ của cộng đồng dân tộc với tài nguyên thiên nhiên không chỉ thay đổi

theo không gian mà còn biến động theo thời gian. Vì thế, khi nghiên cứu vấn

đề trên quan điểm lịch sử sẽ thấy được một cách sâu sắc sự biến đổi của

chúng và phân tích đánh giá nguyên nhân dẫn tới sự biến đổi đó, làm cơ sở

để đưa ra các dự báo phát triển cộng đồng và phương hướng sử dụng hợp lí

các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong những năm tới.

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập tổng hợp và phân tích tư liệu

Tài liệu sơ cấp: sử dụng phương pháp điều tra mẫu điển hình, chọn

thôn, bản, hộ điều tra về các nội dung nghiên cứu của đề tài theo các bộ phiếu

điều tra (lập bảng hệ thống câu hỏi phỏng vấn)

Tài liệu thứ cấp: thu thập các báo cáo khoa học và tài liệu hội thảo, các

báo cáo về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, huyện, xã; các tài

liệu về vấn đề dân tộc, số liệu thống kê của các ban, ngành; sách, báo, tạp chí

đã xuất bản… có liên quan đến nội dung của đề tài.

- Phương pháp phân tích so sánh và tổng hợp:

Phân tích tình hình biến động về kinh tế, xã hội, tài nguyên và môi trường của

địa bàn nghiên cứu.

Phân tích các yếu tố tài nguyên ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội

của cộng đồng các dân tộc.

Phân tích tiềm năng và những trở ngại, mối quan hệ giữa cộng đồng các dân

tộc với việc sử dụng tài nguyên và phát triển bền vững.

- Phương pháp điều tra xã hội học

Con người là chủ thể hoạt động của xã hội đồng thời là đối tượng nghiên cứu

của xã hội học. Con người (cá nhân, nhóm, cộng đồng…) luôn là đối tượng

của việc nghiên cứu còn môi trường sống là nền tảng khách quan. Chính vì

vậy, sử dụng phương pháp điều tra xã hội học trong nghiên cứu đề tài nhằm lí

giải mối quan hệ hữu cơ giữa con người, tài nguyên và môi trường. Quan hệ

này biểu hiện trong nhiều lĩnh vực và nhiều cấp độ khác nhau.

Chọn điểm nghiên cứu:

- Phương pháp đánh giá nông thôn tham dự (PRA)

Phương pháp PRA được thực hiện thong qua việc thảo luận nhóm với những

người có kinh nghiệm của cộng đồng; phân tích, thu thập thông tin từ người

8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân; phân tích những khó khăn hiện có trong cộng đồng, khảo sát những

nguyên nhân và hệ quả của những tồn tài chưa được giải quyết, nâng cao nhận

thức của người dân.

- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã tham khảo ý kiến chuyên gia, các

nhà khoa học trong lĩnh vực văn hóa dân gian, nghiên cứu kiến thức bản địa;

sử dụng, bảo vệ tài nguyên và môi trường… qua đó để có thêm các thông tin

quan trọng về vấn đề dân tộc, vấn đề quản lí và phát triển bền vững tài nguyên

miền núi.

- Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin địa lí (GIS)

Sử dụng phần mềm Mapinfo để thành lập các cơ sở dữ liệu địa lí và xây dựng

các bản đồ chuyên đề: bản đồ hành chính, bản đồ phân bố dân cư, bản đồ

phân bố một số dân tộc, bản đồ biến động diện tích đất theo mục đích sử

dụng, bản đồ độ che phủ rừng …

6. Cấu trúc đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

bản đồ, bảng biểu và tranh ảnh, nội dung đề tài được trình bày thành 03

chương:

Chƣơng 1. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về cộng đồng các dân tộc và

việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên

Chƣơng 2. Cộng đồng các dân tộc và những tác động đến tài nguyên đất,

rừng tỉnh Hòa Bình

Chƣơng 3. Một số giải pháp phát triển kinh tế xã hội và sử dụng hợp lí

nguồn tài nguyên đất và rừng ở tỉnh Hòa Bình theo hướng phát triển bền

vững

9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CỘNG ĐỒNG CÁC

DÂN TỘC VÀ VIỆC SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1.1. Cộng đồng các dân tộc

1.1.1.1. Khái niệm

Thuật ngữ dân tộc (tộc người) được bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ

“ethnos” dung để chỉ những cộng đồng người hình thành và phát triển trong

quá trình tự nhiên – lịch sử. Mỗi cộng đồng người được đặc trưng bởi những

dấu hiệu như: cùng chung tiếng nói, lãnh thổ, đặc điểm lối sống văn hóa và ý

thức tự giác dân tộc. Trong một số trường hợp, những dấu hiệu như cùng

chung lãnh thổ có thể đóng vai trò kém quan trọng hơn [7].

Một số nhà dân tộc học Việt Nam cho rằng, cộng đồng dân tộc hay tộc

người phải được coi là một đơn vị cơ bản để tiến hành xác minh thành phần

các dân tộc. Thông qua nhiều hội thảo khoa học hầu hết ý kiến đều tán thành

các chỉ tiêu xác định thành phần dân tộc là: tiếng nói, đặc điểm văn hóa và ý

thức tự giác dân tộc [2; tr10 – 25].

Phần lớn các nhà dân tộc học Liên Xô (trước đây) cho rằng: cộng đồng

tộc người đồng nghĩa với dân tộc. Về nguyên tắc phân loại cộng đồng các dân

tộc đều thống nhất rằng: các cộng đồng dân tộc khác nhau không phải theo

một đặc trưng nào đó, mà theo tổng thể của một số đặc trưng, đó là [4]:

- Cùng nói một ngôn ngữ hay nói cách khác mỗi một dân tộc đều có

tiếng nói riêng của mình. Có thể nói rằng cộng đồng ít bị phân hóa hơn cả là

cộng đồng về ngôn ngữ. Ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là một phương tiện

để giao lưu mà còn là một phương tiện để phát triển các hình thái quan trọng

10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhất đối với đời sống văn hóa tinh thần của họ. Chỉ có ngôn ngữ mẹ đẻ được

tiếp nhận từ thời thơ ấu mới có thể giúp họ biết được những sắc thái tinh vi

nhất của đời sống tinh thần, mới cho phép họ hiểu biết nhau thấu đáo. Ngôn

ngữ liên quan mật thiết đến bản tính tộc người, không phải ngẫu nhiên mà

phần lớn các tên gọi dân tộc lại trùng lập với ngôn ngữ của họ. Vì vậy trong

tất cả các đặc trưng của dân tộc thì ngôn ngữ là đặc trưng quan trọng nhất.

- Một trong những dấu hiệu quan trọng để phân định giữa các dân tộc là

đặc điểm văn hóa. Văn hóa được mỗi dân tộc xây dựng nên trong quá trình

phát triển lịch sử của mình được lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Vì

vậy, cho đến nay mỗi dân tộc đều có đặc điểm văn hóa riêng, các yếu tố văn

hóa đặc thù thường trở thành biểu tượng của bản sắc văn hóa dân tộc. Khi nói

đến đặc điểm văn hóa có nghĩa là nói đến những thành tựu văn hóa dân tộc đó

đã đạt được những tri thức họ tích lũy được, những đóng góp của họ vào kho

tang văn hóa nhân loại. Vấn đề là, khi xác định một dân tộc không phải chỉ

dựa vào cộng đồng văn hóa có tính đặc trưng, mà cần lưu ý những đặc trưng

ấy cùng với ngôn ngữ tạo ra một sắc thái riêng.

- Ý thức dân tộc hay tự giác dân tộc, suy cho cùng là cái quyết định để

xác định thành phần dân tộc. Nó được xuất hiện khi con người ở cùng một

cộng đồng, sử dụng một tộc danh thống nhất và nó cùng là một kết quả của sự

tác động lẫn nhau của các yếu tố cơ bản hình thành nên cộng đồng dân tộc.

Điều quan trọng của ý thức dân tộc là nó có tính độc lập cao hơn hẳn so với

nguyên nhân hình thành nó.

Cùng cư trú trên một phạm vi lãnh thổ nhấ định. Lãnh thổ như một điều

kiện vật chất, cơ bản để hình thành các cộng đồng dân tộc. Để giao dịch với

nhau, con người thường phải sống gần nhau, thậm chí các nhóm người khác

nhau về ngôn ngữ, về xuất xứ, nếu sinh sống gần nhau trong cùng một lãnh

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thổ, họ có thể tạo thành một cộng đồng thống nhất. Điều kiện tự nhiên của

vùng lãnh thổ đó quyết định nhiều đặc điểm của dời sống con người.

Với các đặc trưng trên và một số đặc trưng khác như nguyên tắc gọi tên các

dân tộc, tức là gọi tên các dân tộc cũng phải theo đúng cách của họ, coi đó là sự

thể hiện tính tự tin dân tộc, trong đó đặc biệt là 3 đặc trưng về: ngôn ngữ, đặc điểm

văn hóa và ý thức dân tộc đã hình thành nên các cộng đồng dân tộc.

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm cơ bản về cộng đồng

các dân tộc như sau:

Cộng đồng các dân tộc là một khái niệm phát sinh do kết hợp hơn một

đến nhiều dân tộc trên một không gian lãnh thổ nhất định. Mỗi một cộng đồng

dân tộc được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định,

với những đặc trưng cơ bản: cùng chung ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa, lãnh

thổ cư trú và ý thức tự giác dân tộc. Tất cả hợp thành cộng đồng chính trị xã

hội rộng lớn gắn bó với nhau trong truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi [7].

1.1.1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc và kiến thức bản địa của cộng đồng các

dân tộc

a. Bản sắc văn hóa dân tộc

Thuật ngữ “Bản sắc” (edentate) chỉ tính chất màu sắc riêng tạo thành

phẩm chất đặc biệt của một sự vật [7]. Thuật ngữ “Bản sắc” nhấn mạnh cái

riêng tạo thành phẩm cách, tài năng.

Khái niệm “văn hóa”, theo từ điển tiếng Việt có nghĩa:

- Toàn thể những thành tựu của loài người trong sản xuất, xã hội và tinh

thần.

12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Sự hiểu về sự vật hay về cách xử thế tích lũy bằng việc học tập có hệ

thống hoặc thấm nhuần đạo đức và phép tắc lịch sử được lưu truyền qua các

thế hệ.

“Bản sắc văn hóa” là những đặc điểm riêng biệt, có giá trị cao, gồm

những giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy trong tiến trình đi lên của một

dân tộc, nó quy định vị trí riêng biệt về mặt xã hội của một dân tộc. Những

giá trị đó có thể ở mọi dân tộc, song từng dân tộc có bản sắc văn hóa được

biểu hiện đậm nét, sâu sắc và đặc biệt hơn [8; tr40].

Việc nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc nhằm mục đích tìm đến cái nét

riêng biểu hiện ở các mặt: nhận thức – thái độ hành vi của nhân cách. Đồng

thời, bản sắc văn hóa dân tộc còn được xem xét từ các góc độ: cái đúng, hay,

tốt có ở mọi dân tộc, song nó được thể hiện ở dân tộc nào đậm nét, sâu sắc trở

thành cái riêng của dân tộc ấy. ở góc độ giá trị tinh thần xã hội, bản sắc văn

hóa dân tộc được thể hiện ở lối sống, cách ứng xử, cách thể hiện, Ở nếp sinh

hoạt, ngôn ngữ, giao tiếp - một cách đặc biệt, khó có thể trộn lẫn. Nếu xét

theo trên cơ sở xã hội, các giá trị được biểu lộ vững bền mà không phụ thuộc

vào biến đổi của lịch sử.

Khi nghiên cứu về vấn đề này, tiến sĩ Phạm Hồng Quang [8] đã đưa ra

cách hiểu về bản sắc văn hóa dân tộc như sau: “Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ

thống giá trị bền vững, mang tính truyền thống và hiện đại, gồm các giá trị

tinh hoa của dân tộc, được vun đắp qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước

và giữ nước; là quá trình tiếp nhận, bổ xung hoàn thiện những giá trị mới,

đồng thời là gạt bỏ những giá trị lạc hậu, lỗi thời, để những giá trị bền vững

luôn sống động với thực tiễn xã hội”.

Như vậy, bản sắc văn hóa dân tộc không phải chỉ là dấu hiệu hình thức

để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, mà quan trọng là đánh giá giá trị

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!