Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Rèn luyện kĩ năng nghe, nói cho học sinh lớp 1 trong dạy học tiếng Việt
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NGÔ HIỀN TUYÊN
RÈN KĨ NĂNG NGHE – NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 1
TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
HÀ NỘI, 2012
2
RÈN KĨ NĂNG NGHE – NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 1
TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học
bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số: 62.14.01.11
:
1. PGS. TS.
2. TS.
, 2013
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
1.1.Rèn KNNN là rèn KN sống cho HS
Nghe - nói - đọc - viết là những hoạt động diễn ra thƣờng xuyên trong cuộc
sống của chúng ta. Trong bốn dạng hoạt động này, xét về tần số xuất hiện, thì cặp
hoạt động nghe - nói diễn ra liên tục hơn, đậm đặc hơn. Cặp hoạt động này có hai
đặc tính nổi bật:
- Thứ nhất, nghe - nói là cặp hoạt động ngôn ngữ nói - dạng giao tiếp trực tiếp
bằng âm thanh trong hoạt động ngôn ngữ. Hoạt động nghe - nói luôn luôn là một
phƣơng tiện đắc lực song hành cùng con ngƣời, giúp con ngƣời nhận thức và tìm
hiểu thế giới xung quanh một cách có hiệu quả. Vì thuộc lĩnh vực âm thanh nhƣ
vậy, nên hoạt động nghe - nói có thể diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, ít bị phụ thuộc vào
điều kiện xung quanh hơn việc giao tiếp bằng chữ viết. Trên thực tế, một ngƣời có
thể không đọc, không viết một trang sách nào nhƣng rất ít ai lại không nghe, không
nói một lời nào.
- Thứ hai, nghe - nói là cặp hoạt động mang cả đặc tính của việc tiếp nhận lời
nói lẫn việc tạo lập lời nói. Nếu nhƣ nghe là tiếp nhận lời ngƣời khác thì nói là tạo
lập lời nói của chính mình. Một ngƣời, trong hoạt động giao tiếp không thể chỉ biết
nghe mà không biết nói. Ngƣợc lại, cũng không thể chỉ biết nói mà không biết
nghe. Hai hoạt động này thƣờng luân phiên, thay thế nhau trong giao tiếp của con
ngƣời.
Muốn sử dụng KNNN một cách có hiệu quả thì cũng cần phải có sự luyện tập
thƣờng xuyên, liên tục và có kế hoạch. Có thể khẳng định, KNNN chỉ hình thành
qua luyện tập và bằng con đƣờng luyện tập. Hiện nay, nhà trƣờng phổ thông đang
cố gắng hình thành cho HS đƣợc những KN sống cơ bản nhất. Trong số những KN
ấy, KN giao tiếp là một trong số những KN quan trọng. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu tìm ra những nội dung cũng nhƣ các biện pháp rèn KNNN cho HS nói chung,
HS đầu cấp TH nói riêng một cách hiệu quả là hết sức cần thiết.
4
1.2.Nghe - nói tốt giúp HS nhận thức và khám phá thế giới có hiệu quả
Hoạt động nghe - nói là hoạt động quan trọng trong việc nâng cao chất lƣợng
học tập của HSTH nói chung và HS lớp 1 nói riêng. Nghe - nói tốt sẽ giúp các em
giao tiếp có hiệu quả và cũng là cơ sở quan trọng tạo ra sự thành công trong học
tập. Bên cạnh đó, nghe - nói còn là một phƣơng tiện để HS tƣ duy và nhận thức về
thế giới xung quanh một cách tích cực. Các em sử dụng hoạt động nghe - nói của
mình để giải quyết trực tiếp một vấn đề hay một tình huống nào đó xảy ra trong
môi trƣờng giao tiếp của mình. Chính khả năng sử dụng ngôn ngữ của các em, đặc
biệt là hoạt động nghe - nói, đã ảnh hƣởng mạnh mẽ tới cách tƣơng tác xã hội và
ảnh hƣởng không nhỏ tới hiệu quả trong giao tiếp của các em.
Năng lực ngôn ngữ tốt là cơ sở giúp trẻ phát triển năng lực học tập, năng lực
tƣ duy, năng lực hợp tác. Đồng thời giúp trẻ tự mình tìm hiểu và khám phá thế giới
xung quanh một cách dễ dàng. Vì vậy, chúng ta xác định việc nâng cao năng lực sử
dụng ngôn ngữ thông qua quá trình rèn KNNN sẽ:
- Cung cấp cho trẻ một phƣơng tiện hoạt động hữu hiệu trong nhiều lĩnh vực
khác nhau của nhà trƣờng.
- Giúp trẻ biết tiếp nhận lời ngƣời khác một cách đầy đủ, chính xác; biết chia
sẻ ý kiến, thƣơng lƣợng, quản lí các hoạt động tƣơng tác, biết cách thức giao tiếp
với những ngƣời khác…
- Giúp trẻ biết cách tạo lập lời nói của mình một cách có văn hóa, lễ phép,
phù hợp với những nhân tố khác nhau của hoạt động giao tiếp.
Do tầm quan trọng của nghe - nói trong hoạt động nhận thức và khám phá thế
giới của trẻ nhƣ vậy nên đề tài đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm của hoạt động
nghe - nói và từ đó đƣa ra đƣợc các biện pháp luyện tập phù hợp với đặc điểm tâm
lí, đặc điểm nhận thức của trẻ và có khả năng thực thi trong việc rèn hai KN này.
1.3.Việc rèn KNNN ở TH hiện nay còn nhiều bất cập
Mục tiêu chƣơng trình TH của chúng ta là phát triển cho HS về bốn phƣơng
diện KN: nghe - nói - đọc - viết. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay, GV quá chú
trọng vào hai KN đọc - viết, thƣờng coi nhẹ việc luyện hai KN nghe - nói. Bản
thân GV còn lúng túng trong việc tổ chức dạy học (lựa chọn nội dung dạy học,
5
hình thức dạy học, phƣơng pháp dạy học) nhằm hình thành và bồi dƣỡng KNNN
cho HS. GV chƣa ý thức đƣợc việc giảng dạy cung cấp thông tin đơn thuần trong
quá trình dạy học là một cấp độ thiển cận. Điều đó làm HS thụ động và không phát
triển tƣ duy. Đa số các GV cho rằng một lớp học trật tự là một lớp học đang học
tập. Việc rèn KNNN cho trẻ thông qua cách thảo luận theo nhóm hay việc tổ chức
một số hình thức luyện tập khác cần đầu tƣ nhiều thời gian và công sức. Vì vậy,
không phải GV nào cũng quan tâm đến vấn đề này một cách nghiêm túc.
Ngoài vấn đề nhận thức của GV về vai trò quan trọng của KNNN trong quá
trình học tập môn TV cho HSTH thì việc tổ chức rèn KNNN cho HS đầu cấp TH
của chúng ta hiện nay cũng có một số vấn đề khó khăn:
Thứ nhất, có quá nhiều các môn học đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình giảng
dạy từ giáo dục thể chất, nghệ thuật, âm nhạc, tin học, ngoại ngữ, tự nhiên xã hội,
khoa học cho đến chính tả, tập viết, tập đọc, toán, đạo đức, lịch sử, địa lí… và một
số chƣơng trình đặc biệt trong hoạt động ngoài giờ lên lớp. Trong khi đó, khả năng
tích hợp các vấn đề về nội dung, KN học tập cho HS đối với GV còn non kém.
Điều đó dẫn đến một thực tế là GV không đủ thời gian cần thiết để quan tâm tới
nội dung của hoạt động nghe - nói và càng khó khăn hơn trong việc tổ chức rèn
KNNN cho HS.
Thứ hai, hệ thống các bài tập chƣa tập trung nhiều vào việc rèn KN nghe -
nói. Các kiểu loại bài tập chƣa phong phú, nội dung các bài tập rèn KNNN chƣa
thực sự hấp dẫn đối với HS.
Thứ ba, cách thức tổ chức rèn KNNN trong nhà trƣờng hiện nay còn đơn
điệu, nhàm chán chƣa thực sự lôi cuốn sự tham gia tích cực của HS. Để tăng cƣờng
hiệu quả việc rèn KNNN cho HS, GV cần phải chú ý đến các yếu tố: khả năng bộc
lộ các KN, khả năng thể hiện kiến thức, khả năng xác định nội dung, đối tƣợng,
mục đích và hoàn cảnh giao tiếp phù hợp để giao tiếp hiệu quả. HS cần học cách
nói chuyện với chính bản thân mình, tham gia các cuộc hội thoại, phỏng vấn, thảo
luận theo nhóm nhỏ, nói chuyện với GV và những ngƣời thân xung quanh. Các em
phải học cách nói chuyện phù hợp với các tình huống và đối tƣợng giao tiếp khác
nhau.
6
1.4.Yêu cầu đổi mới việc dạy học TV và rèn KNNN cho HSTH
Nghị quyết đại hội trung ƣơng IV (khoá 7) có ghi: “Sự phát triển của đất
nước trong giai đoạn mới sẽ tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra những
thách thức không nhỏ đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo của đất nước
ta. Bối cảnh mới tạo cơ hội thuận lợi để giáo dục đào tạo nước ta tiếp cận với xu
thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tranh thủ các nguồn lực
bên ngoài, tạo thời cơ để phát triển giáo dục và đào tạo; tạo điều kiện để đổi mới
căn bản và toàn diện nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đổi
mới quản lí giáo dục, đào tạo, tiến tới một nền giáo dục, đào tạo tiên tiến, hiện đại
đáp ứng nhu cầu của xã hội và từng cá nhân người học”.
Theo tinh thần này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành triển khai các nhiệm
vụ nhằm cụ thể hóa những giải pháp mang tính chiến lƣợc trong giáo dục TH, cụ
thể:
- Tiến hành rà soát và điều chỉnh một phần SGK. Chƣơng trình TV đƣợc định
hƣớng tăng cƣờng thực hành và rèn các KN cụ thể nhƣ nghe - nói - đọc - viết.
- Quán triệt tinh thần đổi mới phƣơng pháp dạy học lấy HS làm trung tâm,
khắc phục nhƣợc điểm của lối dạy học truyền thống, tiếp cận với các phƣơng pháp
dạy học hiện đại nhằm thay đổi nhận thức và tƣ duy của ngƣời học, đáp ứng kịp
thời xu thế phát triển của xã hội.
- Chuẩn bị tổ chức biên soạn, thử nghiệm nội dung chƣơng trình, SGK, tài
liệu, phƣơng pháp dạy học mới… để chuẩn bị cho công cuộc đổi mới căn bản và
toàn diện của chƣơng trình giáo dục sau năm 2015.
Mục đích của việc dạy TV ở TH là giúp HS sử dụng TV thành thạo trong
giao tiếp. Việc hình thành và rèn KN nghe - nói - đọc - viết cho các em là một
trong những mục tiêu quan trọng của môn TV TH theo định hƣớng đƣa ngôn ngữ
vào các hoạt động giao tiếp trong cuộc sống một cách sinh động. Trong các KN đó,
KNNN đƣợc quan tâm nhƣ một yếu tố cơ bản.
Tóm lại, với tất cả những lí do trên cho phép ta kết luận: việc rèn KNNN cho
HSTH là vô cùng quan trọng. Việc nghiên cứu xây dựng một nội dung và phƣơng
7
pháp phù hợp dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn sẽ góp phần rèn KNNN cho HS
hiệu quả hơn trong nhà trƣờng.
2.
2.1.
Luận án hƣớng đến hai mục đích chính sau đây:
- Đƣa ra những định hƣớng về nội dung, phƣơng pháp và hình thức tổ chức
rèn KNNN cho HS lớp 1 nhằm giúp GV tháo gỡ những khó khăn trong quá trình tổ
chức hoạt động dạy TV theo định hƣớng giao tiếp.
- Đƣa ra quy trình rèn KNNN phù hợp thông qua HTBT tƣơng ứng nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học nói chung đồng thời giúp HS nâng cao năng lực ngôn
ngữ, đặc biệt biết cách sử dụng ngôn ngữ nói nhƣ một công cụ trong hoạt động
giao tiếp cũng nhƣ các hoạt động học tập và vui chơi khác.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tổng quan nghiên cứu về vấn đề rèn KNNN cho HSTH trong và ngoài nƣớc
thông qua vệc tìm kiếm, tập hợp tƣ liệu tham khảo.
- Hệ thống hóa, phân tích một cách chi tiết, cặn kẽ những cơ sở lí luận khoa
học về tâm lí học, ngôn ngữ học, tâm lí học hoạt động của việc rèn KNNN cho HS
đầu cấp TH.
- Khảo sát chƣơng trình, hệ thống BT rèn KNNN trong SGK TV1; khảo sát
tình hình rèn KNNN cho HS lớp 1 trong thực tiễn dạy học. Trên cơ sở đó, phát
hiện những ƣu điểm và hạn chế của việc rèn KNNN cho HS lớp 1 và xác định
hƣớng đề xuất của đề tài.
- Xây dựng nội dung và biện pháp tổ chức quá trình rèn KNNN.
- Đề xuất HTBT rèn KNNN cho HS lớp 1 và thiết kế một số giờ dạy mẫu
nhằm cụ thể hoá quy trình hình thành KNNN.
- Kiểm chứng khả năng thực thi của các đề xuất đƣợc nêu ra trong luận án
bằng tổ chức thực nghiệm đánh giá để đƣa ra kết luận và kiến nghị cần thiết.
8
3.
3.1. Đối tượng
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án chính là nội dung và cách tổ chức rèn
KNNN cho HS lớp 1 thông qua môn TV. Bên cạnh đó, luận án còn quan tâm
nghiên cứu các biện pháp tổ chức rèn KNNN thông qua các BT thực hành. Trên cơ
sở xác định mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết của hai KN này trong tổng thể các KN
sử dụng ngôn ngữ của HSTH.
3.2. Phạm vi
Một trong những mục tiêu quan trọng của việc dạy TV cho HSTH nói chung
và HS lớp 1 nói riêng là hình thành và phát triển cả bốn KN nghe - nói - đọc - viết
cho các em. Tuy nhiên, đề tài chỉ giới hạn xem xét nghiên cứu hai KN cơ sở ban
đầu là KN nghe và KN nói, trong đó nhấn mạnh KNNN trong hoạt động giao tiếp.
Đề tài xác định nội dung, phƣơng pháp và cách thức tổ chức rèn KNNN cho HS
lớp 1 ở các trƣờng TH đang học theo chƣơng trình hiện hành của Bộ Giáo dục và
Đào tạo thông qua môn TV.
4.
Chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau trong quá trình hoàn
thiện luận án:
4.1. Phương pháp khảo sát điều tra
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong quá trình điều tra thực trạng vấn đề rèn
KNNN cho HS ở lớp 1 thông qua việc khảo sát, phỏng vấn, thăm dò ý kiến đối với
cán bộ quản lí, GV, HS. Ngoài ra, phƣơng pháp này cũng đƣợc sử dụng trong khi
dự giờ, trao đổi và thảo luận với cán bộ quản lí, GV trong quá trình triển khai thực
nghiệm ý tƣởng đề tài. Kết quả điều tra, khảo sát giúp tác giả luận án xác định
hƣớng nghiên cứu của đề tài và là cơ sở để đề xuất những nội dung, phƣơng pháp
và cách thức tổ chức rèn KNNN cho HS lớp 1.
4.2. Phương pháp phân tích
. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng khi phân tích
9
những cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng nội dung và biện pháp rèn
KNNN cho HS lớp 1.
4.3. Phương pháp thống kê, phân loại, so sánh
Phƣơng pháp thống kê, phân loại là phƣơng pháp bắt buộc khi chúng tôi tiến
hành khảo sát, phân loại, thống kê hệ thống các BT rèn KNNN trong SGK TV1
hiện hành. Dựa trên những kết quả đó, đề tài phát hiện ra điểm mạnh, điểm yếu của
việc rèn KNNN trong quá trình dạy học. Từ đó, đề tài xây dựng những tiêu chí phù
hợp hơn cho nội dung rèn KNNN nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.
Phƣơng pháp thống kê, so sánh lại đƣợc sử dụng một cách có hiệu quả sau
quá trình thực nghiệm. Kết quả của việc so sánh, đối chứng chính là một trong
những sự kiểm chứng về tính khả thi của đề tài.
4.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Đây là một phƣơng pháp nhằm kiểm tra, đánh giá và xem xét tính khả thi của
những nội dung, phƣơng pháp rèn KNNN cho HS đã đƣa ra trong luận án. Ngoài
việc lấy ý kiến của các chuyên gia, cán bộ quản lí, GV, đề tài còn tiến hành quan
sát thực tiễn dạy học của GV, HS, xử lí số liệu khảo sát một cách tỉ mỉ, công phu
và chính xác. Quá trình thực nghiệm cũng là quá trình thăm dò, kiểm nghiệm từng
bƣớc đi một cách chắc chắn trong suốt quá trình nghiên cứu và triển khai theo định
hƣớng ban đầu của đề tài.
Luận án đã sử dụng các loại thực nghiệm cơ bản sau:
- Thực nghiệm thăm dò nhằm thăm dò khả năng thực hiện các nội dung và
phƣơng pháp rèn KNNN mà luận án đã đƣa ra nhằm tăng cƣờng KN sử dụng ngôn
ngữ cho HS lớp 1.
- Thực nghiệm kiểm tra, đánh giá (thực nghiệm dạy học): nhằm kiểm tra,
đánh giá việc ứng dụng các nội dung và phƣơng pháp rèn KNNN trong quá trình
dạy học môn TV ở đầu cấp TH.
5.
Hiện nay, việc rèn KNNN cho HS đầu cấp TH còn chƣa đƣợc GV chú trọng.
Hình thức luyện tập chƣa thật lôi cuốn, hấp dẫn và đặc biệt là HS còn có tâm lí e
ngại khi đứng trƣớc lớp nên việc rèn KNNN chƣa đạt đƣợc kết quả mà nhà trƣờng
10
mong muốn. Vì vậy, nếu chúng ta dựa trên một cơ sở lí luận khoa học chắc chắn,
việc khảo sát thực trạng đƣợc tiến hành chu đáo và đề xuất đƣợc những nội dung
cũng nhƣ biện pháp, quy trình luyện tập thích hợp thông qua HTBT khoa học, hấp
dẫn, phù hợp với đối tƣợng HS thì chắc chắn chất lƣợng rèn KNNN cho HS đầu
cấp TH sẽ đƣợc nâng cao. Các em sẽ mạnh dạn, tích cực luyện tập hơn và điều đó
sẽ giúp các em thực hiện hoạt động nghe - nói có hiệu quả, tạo cho các em sự tự
tin, bình tĩnh, chủ động khi nghe - nói trong học tập và giao tiếp.
6.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ đóng góp tích cực vào việc dạy học TV
cho HSTH nói chung và việc rèn KNNN cho HS lớp 1 nói riêng. Những đóng góp
đó đƣợc thể hiện ở những điểm sau:
1. Xác định cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc xây dựng nội dung và phƣơng
pháp rèn KNNN cho HS lớp 1 qua môn TV. Đó chính là kết quả của việc vận dụng
có chọn lọc những thành tựu ngôn ngữ học, tâm lí học vào quá trình dạy học. Và
đó cũng chính là kết quả nghiên cứu xuất phát từ thực tiễn việc rèn KNNN cho
HSTH hiện nay.
2. Đề tài đã đƣa ra những nội dung và biện pháp rèn KNNN cho HS lớp 1.
Những nội dung và biện pháp này đƣợc xác định một cách rõ ràng dựa trên cơ sở
khoa học và thực tiễn. Thông qua việc xây dựng HTBT thực hành và thiết kế một
số giờ dạy học mẫu, đề tài cũng đƣa ra quy trình tổ chức rèn KNNN nhƣ những
minh chứng cho quá trình mà theo chúng tôi là hợp lí nhất. Đồng thời, đề tài còn
chỉ rõ định hƣớng vận dụng vào thực tiễn dạy học TV hiện nay. Những đề xuất này
có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho GV đồng thời cũng là những định hƣớng
trong việc tổ chức dạy học TV cho HS lớp 1 hiện nay.
7.
Luận án gồm 150 trang chính văn và 76 trang phụ lục.
Cấu trúc gồm 4 phần:
- Phần Mở đầu gồm: lí do chọn đề tài, mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm
vi, phƣơng pháp nghiên cứu, giả thuyết khoa học, những đóng góp của luận án, cấu
trúc của luận án.
11
- Phần nội dung gồm 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan những nghiên cứu về vấn đề rèn KNNN cho HS đầu
cấp TH
Chƣơng 2: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc rèn KNNN cho HS lớp 1 qua
môn TV
Chƣơng 3: Tổ chức rèn KNNN cho HS lớp 1 trong dạy học môn TV
Chƣơng 4: Thực nghiệm sƣ phạm
- Phần Kết luận chung gồm những kết quả đạt đƣợc, những đóng góp mới
và đề xuất của luận án.
Ngoài 4 phần chính, luận án còn có:
- Phần tài liệu tham khảo: Thống kê tài liệu tham khảo đƣợc sử dụng trong
quá trình hoàn thành luận án.
- Phần phụ lục: Giới thiệu phiếu điều tra và kết quả điều tra dành cho cán bộ
quản lí, GVvà HS về vấn đề rèn KNNN ở đầu cấp TH; giới thiệu một số giáo án
mẫu về tiết dạy rèn KNNN cho HS lớp 1.
12
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ VẤN ĐỀ
RÈN KĨ NĂNG NGHE - NÓI CHO HỌC SINH ĐẦU CẤP TIỂU HỌC
1.1. Việc nghiên cứu hoạt động nghe - nói và dạy học nghe - nói cho HS đầu
cấp TH ở một số nƣớc trên thế giới
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về rèn KNNN
Hiện nay, trên thế giới có nhiều nghiên cứu về năng lực sử dụng ngôn ngữ
của HSTH nói chung và vấn đề hình thành KNNN cho HS đầu cấp TH nói riêng.
Trong phạm vi và khuôn khổ của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu một số
công trình có đề cập đến vấn đề rèn KNNN cho HS đầu cấp TH mà đề tài quan
tâm.
- Đầu tiên, cần khái quát về quan điểm dạy Tiếng mẹ đẻ của các nhà khoa
học Nga. Đây có thể đƣợc xem là những định hƣớng, gợi ý quan trọng cho việc rèn
KNNN cho trẻ đầu cấp TH mà chúng tôi đƣa ra trong luận án.
+ Tác giả Phê-đô-ren-cô L.L đã đƣa ra năm nguyên tắc khi dạy Tiếng mẹ đẻ:
nguyên tắc chú ý đến mặt vật chất của ngôn ngữ, nguyên tắc thông hiểu ý nghĩa
của ngôn ngữ, nguyên tắc đánh giá tính biểu cảm của lời nói, nguyên tắc phát triển
cảm quan của ngôn ngữ và nguyên tắc phát triển lời nói miệng trƣớc lời nói viết.
Khi khẳng định nguyên tắc lời nói miệng phát triển trƣớc lời nói viết, tác giả đã
phân tích: “Đối với trẻ, lời nói viết là giai đoạn thứ hai trong sự lĩnh hội lời nói
chung và trẻ không thể lĩnh hội đƣợc lời nói viết nếu không nắm đƣợc lời nói
miệng” [1, tr. 93,94].
Nhƣ vậy, tác giả đã nhấn mạnh vai trò của lời nói miệng. Điều đó cũng có
nghĩa là vai trò của KNNN đã đƣợc quan tâm ngay từ giai đoạn đầu tiên trong quá
trình học ngôn ngữ của trẻ. Cũng trong cuốn sách này, tác giả V. I. Ca-pi-nôx đã
nhấn mạnh những quan điểm của lí thuyết hoạt động trong lĩnh vực tâm lí học,
quan điểm này đã có những tác động cơ bản tới sự hình thành và phát triển lời nói
cho trẻ. Ông khẳng định: “Động cơ nói năng không phải là hoạt động của lời nói
mà là hoạt động thuộc bậc cao hơn - hoạt động giao tiếp. Từ đó, chúng ta có thể
nói về hoạt động nói năng nếu nhƣ chúng ta xem xét lời nói trong khuôn khổ của
13
hoạt động giao tiếp” [2, tr116]. Nhƣ vậy, thông qua vấn đề “Phát triển năng lực
ngôn ngữ cho HS dƣới ánh sáng của lí thuyết hoạt động lời nói”, tác giả đã đƣa ra
một kết luận: Hoạt động nghe - nói cần đƣợc đặt trong hoạt động giao tiếp.
- Trong những năm gần đây, đã có thêm nhiều nghiên cứu đề cập tới vai trò,
vị trí của việc dạy KNNN trong quá trình hình thành năng lực sử dụng ngôn ngữ
tiếng mẹ đẻ ở HSTH. Đây cũng là vấn đề đƣợc hệ thống giáo dục của Vƣơng quốc
Anh chú ý. Việc xác định nội dung và phƣơng pháp rèn KNNN đã đƣợc nghiên
cứu và thực nghiệm trong thực tiễn giảng dạy và mang đến hiệu quả cao cho HS
trong quá trình hình thành và rèn KNNN.
+ Tác phẩm “Toward an analysis of discourse” (Hƣớng đến việc phân tích
diễn ngôn), xuất bản năm 1975 của tác giả Sinclair và Coulthard (Anh) [140] đã
cung cấp và mô tả các mô hình hội thoại của GV và HS trong giờ học, nhấn mạnh
vai trò hình thức hội thoại trong việc rèn KNNN cho HS.
+ Tài liệu “Teaching Speaking and Listening in the Primary School” (Dạy
nói và nghe trong trƣờng TH) (2000) của nhóm tác giả Elizabeth Grugeon, Lyn
Dawers, Carol Smith and Lorraine Hubbard [136]. Tài liệu này đã cung cấp một
cách nhìn tổng quan về vai trò và sự phát triển của KNNN trong nhà trƣờng. Tài
liệu cho thấy các hình thức tổ chức việc rèn KNNN trên sân chơi hay trong lớp
học, tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm dƣới hình thức đối thoại, tổ chức luyện
nói thông qua thảo luận, trò chơi, đóng vai và kể chuyện cũng là những hình thức
mang lại hiệu quả tích cực. Đặc biệt, tài liệu còn khẳng định vai trò tổ chức và
hƣớng dẫn, cách đặt câu hỏi và khuyến khích HS nói, cách lắng nghe và chia sẻ
của GV đối với HS là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công. Tài liệu cũng
đƣa ra một số hình thức tổ chức rèn KNNN thông qua một số những phƣơng tiện
hiện đại: máy tính, phim truyền hình... Điều quan trọng nhất là trong chƣơng 8 của
tài liệu có giới thiệu về cách kiểm soát và đánh giá KNNN trong lớp học. Từ việc
lập kế hoạch cho đến việc thu nhập những kết quả về KNNN của HS trong quá
trình phát triển. Và cuối cùng là việc kiểm tra khả năng nghe - nói độc lập cũng
nhƣ đánh giá mức độ KNNN của các em khi tham gia hoạt động nhóm dƣới các
hình thức khác nhau.
14
Tài liệu giúp chúng tôi hiểu và tiếp cận đƣợc phần nào đó việc giảng dạy và
rèn KNNN trong trƣờng TH nƣớc Anh và có cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn trong
việc đề xuất các biện pháp rèn KNNN cho HS đầu cấp TH của mình.
+ Cuốn sách “Curriculum Guidance for the Foundation Stage” (Hƣớng dẫn
chƣơng trình giảng dạy cho giai đoạn khởi đầu) - (Xuất phát điểm cho giáo dục và
hướng nghiệp (DfEE)/ Những tiêu chuẩn và cơ sở của Chương trình giảng dạy
(QCA)2000: 44 - 5) [143] đã đặt sự phát triển và năng lực sử dụng ngôn ngữ trong
giao tiếp làm trung tâm trong hoạt động học tập của trẻ nhỏ.
+ Cuốn sách “National Literacy Strategys: Framework for Teaching” (DfEE
1998c:3) [143] - (Chiến lƣợc dạy chữ quốc gia: khung chƣơng trình giảng dạy) đặt
hai KNNN là trọng tâm trong chƣơng trình dạy chữ. Hai KN này đƣợc coi là một
phần thiết yếu trong hoạt động học tập của HSTH mặc dù không đƣợc xác định
riêng biệt trong khung chƣơng trình. Nội dung trong cuốn sách đã củng cố thêm
tầm quan trọng của KNNN khi phân chia giờ học. Yếu tố quan trọng trong chƣơng
trình “Literacy Hour” đòi hỏi có sự trao đổi lời nói trong lớp học, nghĩa là trẻ em
cần phải tập trung chú ý tới lời giảng của GV và có sự đáp lại nhanh chóng. Nhiều
bài học rèn KN đọc và viết cũng lệ thuộc vào việc trao đổi thông tin bằng lời nói
giữa GV và HS thông qua việc tổ chức cho HS hoạt động nhóm nhằm thảo luận
những nội dung học tập cần có sự hợp tác giữa các nhóm.
+ Tài liệu “Speaking, listening, learning” (QCA/Khoa Giáo dục và KN
(DfES), (2003) [144], nội dung đánh giá cao hoạt động trao đổi bằng lời nói và
khuyến khích GV tổ chức nhiều hoạt động này để phát triển khả năng tƣ duy phản
biện của trẻ bằng cách dẫn dắt các kiểu nói chuyện hội thoại.
+ Trong “The National Curriculum” - Chƣơng trình giảng dạy Quốc gia
(DfEE/ QCA 1999) [142], nội dung dành cho việc rèn KNNN chiếm 1/3 chƣơng
trình học Tiếng Anh, việc rèn KNNN đã đƣợc tổ chức thông qua cả 2 hình thức
“thảo luận nhóm” và “đóng kịch” dƣới tựa đề “Knowledge, Skills and
Understandings” - “Kiến thức, KN và hiểu biết”.
- Cuốn “Teaching oral language” (Building afirm foundation using
ICPALER in the early pmary year), xuất bản lần đầu tiên năm 2011, tác giả Jonh
15
Munro (Australian Council for Educational Resesrch) [134] là cuốn sách rất đáng
đƣợc chú ý. Trong tác phẩm này, tác giả không chỉ đƣa ra những căn cứ thuyết
phục xác định tầm quan trọng của KNNN trong quá trình dạy KN đọc - viết và quá
trình tiếp nhận kiến thức mà còn đề cập đến lí do đặt vấn đề trọng tâm của ngôn
ngữ giao tiếp trong những năm đầu cấp TH thông qua mô hình có tên gọi là
ICPALER. Mục đích của mô hình nhằm trang bị cho GV những nội dung cơ bản
cũng nhƣ cách kiểm soát các KNNN của HS. Trong phần hai, tài liệu miêu tả rất rõ
quá trình giảng dạy nhằm nâng cao ngôn ngữ nói cho HS cấp TH. Việc hình thành
và phát triển ngôn ngữ nói cho HS đƣợc thực hiện qua những hoạt động dạy học
nhằm từng mục tiêu cụ thể phù hợp với từng giai đoạn:
o Dạy các quy ƣớc và nghĩa của từ
o Dạy cách nghe hiểu và diễn đạt câu
o Dạy nghe hiểu và diễn đạt chủ đề
Trên cơ sở đó, cuốn sách còn dạy HS vận dụng cách sử dụng ngôn ngữ
trong học tập và giao tiếp.
- J.A. Foley (2006), “New Dimentions In The Teaching of Oral
Communication” (Anthology series 47 Published by Seameo Regional language
Centre) [138] đã tập hợp 16 vấn đề đã đƣợc lựa chọn để đại diện cho những ý
tƣởng và quan điểm về “Những chuẩn mực mới trong giảng dạy giao tiếp”. Các
vấn đề trên đƣợc chia làm 3 nhóm: lí thuyết nền tảng, ứng dụng thực tế và đánh giá
giao tiếp. Nhìn chung, tài liệu đã đề cập đến vai trò của KN nói trong việc học tập
một ngôn ngữ, trong đó đặc biệt quan tâm tới sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
- R.J. Campbell (2006), “Developing the primary School Curriculum” [139]
giúp ta có cái nhìn tổng quan về chƣơng trình phát triển giáo dục ở TH, bao gồm
các vấn đề: tình hình chính trị, học thuyết về chƣơng trình phát triển giáo dục, vai
trò của giáo viên; cung cấp những kinh nghiệm nghiên cứu về chƣơng trình giáo
dục của một số nƣớc; đƣa ra một mô hình nhà trƣờng lí tƣởng trong đó nhấn mạnh
nhận thức của GV về vai trò của họ và điều kiện môi trƣờng làm việc của GVTH.
Qua đó, ta có một hình dung tổng thể về vị trí vấn đề đang nghiên cứu đƣợc đặt
trong một hệ thống chung.