Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nước
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
VÕ THỊ THÚY LOAN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KÝ
KINH DOANH ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP TRONG NƯỚC
Chuyên ngành: LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60.38.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN CẢNH HỢP
TP. Hồ Chí Minh – năm 2007
2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CQNN : Cơ quan nhà nước
DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
ĐKKD : Đăng ký kinh doanh
GCN : Giấy chứng nhận
HĐND : Hội đồng nhân dân
KH&ĐT : Kế hoạch và Đầu tư
LDN : Luật Doanh nghiệp
QLNN : Quản lý nhà nước
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
UBND : Ủy ban nhân dân
3
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Chương 1: ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
ĐĂNG KÝ KINH DOANH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC
1.1. Khái niệm và bản chất của đăng ký kinh doanh
1.1.1. Khái niệm ĐKKD
1.1.2. Bản chất của ĐKKD
1.2. Các điều kiện pháp lý khung của đăng ký kinh doanh
1.2.1. Điều kiện về chủ thể ĐKKD
1.2.2. Điều kiện về vốn trong ĐKKD
1.2.3. Điều kiện về ngành nghề ĐKKD
1.2.4. Điều kiện về chuyên môn trong ĐKKD
1.3. Các quy định về nội dung đăng ký kinh doanh
1.3.1. Quy định về trụ sở, địa chỉ và tên gọi của DN
1.3.2. Quy định về mô hình DN
1.3.3. Quy định về cơ quan thực hiện việc ĐKKD
1.3.4. Quy định các biện pháp chế tài trong ĐKKD
1.4. Nội dung, đặc trưng, vai trò, ý nghĩa của quản lý nhà nước về đăng ký
kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nước
1.4.1. Nội dung của QLNN về ĐKKD đối với DN trong nước
1.4.2. Đặc trưng của QLNN về ĐKKD đối với DN trong nước
1.4.3. Vai trò, ý nghĩa của QLNN về ĐKKD đối với DN trong nước
1.5. Một số kết luận
5
10
10
10
12
15
15
19
21
24
26
26
29
34
37
40
40
43
47
49
4
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
TRONG NƯỚC
2.1. Thực trạng hướng dẫn về đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp
trong nước
2.1.1. Hệ thống pháp luật về ĐKKD đối với DN trong nước (từ 1990 đến nay)
2.1.2. Thực trạng hướng dẫn về ĐKKD đối với DN trong nước theo LDN 2005
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về đăng ký
kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nước
2.2.1. Thẩm quyền cấp GCN ĐKKD đối với DN trong nước
2.2.2. Tổ chức cơ quan ĐKKD
2.2.3. Thủ tục ĐKKD
2.3. Giải quyết các thủ tục để doanh nghiệp trong nước đi vào hoạt động
2.4. Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện những nội dung đã được đăng ký kinh
doanh, tình hình chấp hành các quy định pháp luật của doanh nghiệp sau đăng
ký kinh doanh; giải quyết khiếu nại, tố cáo và khen thưởng
2.5. Xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh
2.6. Một số kết luận
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
52
52
52
55
69
69
77
85
102
107
115
122
127
130
5
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Kể từ khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ nền
kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì vấn
đề huy động nguồn vốn của các nhà đầu tư ở trong nước để phát triển kinh tế
luôn là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước. Do đó, để thúc đẩy nội lực
cũng như để tạo đà phát triển cho nguồn đầu tư trong nước, Nhà nước từ năm
1986 cho đến nay đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến doanh
nghiệp (DN) trong nước và khuyến khích đầu tư, trong đó, việc việc ban hành và
phát triển các quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh (ĐKKD) được coi là
yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của các
DN. Đặc biệt là sự ra đời của chế định ĐKKD trong Luật Doanh nghiệp (LDN)
1999 với các quy định pháp lý rõ ràng, dễ hiểu, có tính khả thi, hạn chế sự can
thiệp của các cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) vào hoạt động kinh doanh của
DN đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của
các DN.
Theo số liệu thống kê của Cục phát triển DN vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư (KH&ĐT), từ đầu năm 2000 đến hết năm 2005, đã có 160.752 DN
ĐKKD, gấp 3,3 lần so với tổng số DN đăng ký thành lập giai đoạn 1991-1999.
Số DN đăng ký trung bình hàng năm hiện nay bằng khoảng gần 6 lần so với số
trung bình hàng năm giai đoạn 1991-1999. Số vốn đăng ký mới đạt khoảng
321,2 nghìn tỷ đồng (khoảng 20 tỷ USD) [89, 8]. Đây là một thành công lớn của
LDN 1999 qua 6 năm thi hành, đánh dấu một bước phát triển mới của nền kinh
tế nước ta, góp phần giải quyết việc làm cho hàng triệu người lao động trên
6
phạm vi cả nước, đóng góp một khối lượng tài sản lớn cho xã hội.
Thành tựu trên phản ánh tính đúng đắn trong chính sách đổi mới quản lý
kinh tế của Nhà nước, trong đó có hoạt động QLNN về ĐKKD đối với DN trong
nước. Tuy nhiên, qua nghiên cứu và thực tiễn kiểm nghiệm cho thấy, pháp luật
về ĐKKD mới chỉ chú trọng đến một nửa là vấn đề “tiền kiểm” với việc đơn
giản hóa các thủ tục, tạo điều kiện để DN thành lập và hoạt động nhanh chóng.
Còn một nửa vấn đề là “hậu kiểm” chưa được coi trọng đúng mức, vì thế không
ít sự vi phạm của DN đã vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước như tình trạng
DN ĐKKD nhưng không hoạt động, chuyển trụ sở không thông báo, có những
DN ĐKKD chỉ nhằm mua bán hóa đơn giá trị gia tăng thu lời bất chính, đặc biệt
là tình trạng DN nhiều nhưng nộp thuế ít, trốn thuế là phổ biến. Mặt khác, công
tác QLNN về ĐKKD đối với DN trong nước hiện nay còn nhiều hạn chế. Ở một số
địa phương, cơ quan ĐKKD còn tùy tiện tự đặt ra những thủ tục, hồ sơ giấy tờ
trái luật, thậm chí ra lệnh ngừng hoặc không cấp ĐKKD đối với một số ngành
nghề không thuộc đối tượng cấm kinh doanh. Tình trạng này đã tạo ra sự biến
chuyển tâm lý của nhà đầu tư từ sự hăng hái tìm hiểu các quy định pháp luật để
áp dụng thành lập mô hình DN của mình thành tâm lý coi thường, không đánh
giá cao tầm quan trọng của khâu ĐKKD, coi đó chỉ là vấn đề thủ tục hình thức
để có GCN ĐKKD.
Những vấn đề trên phản ánh hạn chế trong công tác QLNN về hoạt động
ĐKKD của DN, đặc biệt là sự tổ chức và phối hợp giữa cơ quan ĐKKD với các
cơ quan QLNN khác trong việc kiểm tra, theo dõi, giám sát DN còn có những sơ
hở, tạo ra khoảng trống từ “tiền đăng” sang “hậu kiểm”. Bên cạnh việc quy định
khá đầy đủ về thủ tục ĐKKD, pháp luật còn thiếu một cơ chế bảo đảm cho các
quy định về ĐKKD được thực hiện nghiêm túc. Đồng thời sự phân tán của các
7
quy định về thủ tục ĐKKD và cơ quan ĐKKD đã tạo ra sự quản lý thiếu thống
nhất, gây khó khăn trong việc giám sát, theo dõi các DN và vi phạm nguyên tắc
bình đẳng giữa các DN, đi ngược với chủ trương khơi dậy mọi nguồn lực đầu tư
cho sự phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Hơn nữa, pháp luật về ĐKKD đối với DN trong nước theo LDN 2005 hiện
nay đã có nhiều thay đổi rất căn bản so với quy định của LDN 1999, đòi hỏi
công tác QLNN về ĐKKD phải có những thay đổi cho phù hợp với quy định
mới. Việc nhận thức đúng và thực hiện nghiêm các quy định mới về ĐKKD đối
với DN trong nước theo LDN 2005 là rất cần thiết. Do đó, việc nghiên cứu
QLNN về ĐKKD đối với DN trong nước nhằm đưa ra những phương hướng hoàn
thiện pháp luật về ĐKKD và giải pháp nâng cao năng lực QLNN đối với DN,
góp phần làm thân thiện hơn mối quan hệ giữa các CQNN và DN, là một yêu cầu
cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
ĐKKD là một hình thức QLNN đối với DN trong nước. Ở nước ta đã có
nhiều bài viết và công trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí về đề tài ĐKKD trên
bình diện nêu ra những bất cập, trở ngại cần phải điều chỉnh về mặt hình thức
trong pháp luật ĐKKD, để pháp luật ĐKKD hoàn thiện và sát với thực tế hơn
hoặc chỉ đề cập đến quyền tự do kinh doanh trong việc đăng ký thành lập DN của
nhà đầu tư, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư…Tuy nhiên, nghiên cứu
một cách hệ thống về bản chất của ĐKKD, đặc trưng của QLNN về ĐKKD đối
với DN trong nước, để tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về ĐKKD và xây
dựng năng lực QLNN trong lĩnh vực ĐKKD đối với DN trong nước cho tương
xứng với vai trò của Nhà nước thì hầu như chưa có một công trình nào đề cập đến.
Thực hiện đề tài “Quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh đối với
8
doanh nghiệp trong nước”, tác giả hy vọng có một đóng góp nhỏ bé cho công
tác hoàn thiện pháp luật về ĐKKD và nâng cao hiệu quả công tác QLNN về
ĐKKD đối với DN trong nước.
3. Nhiệm vụ của đề tài:
+ Nghiên cứu làm rõ bản chất của hoạt động ĐKKD, những vấn đề lý luận
và pháp lý của QLNN về ĐKKD đối với DN trong nước theo LDN 2005.
+ Nghiên cứu và phân tích thực trạng QLNN về ĐKKD đối với DN trong
nước.
+ Tìm ra nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện chưa tốt chức năng QLNN
về ĐKKD đối với DN trong nước hiện nay.
+ Đánh giá những bất cập của pháp luật hiện hành quy định về QLNN đối
với hoạt động ĐKKD, thành lập DN.
+ Đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ĐKKD và
nâng cao năng lực QLNN về ĐKKD đối với DN trong nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác QLNN về ĐKKD đối với
DN trong nước.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu công tác QLNN đối với hoạt động
ĐKKD thành lập mới của DN trong nước (DN có vốn đầu tư trong nước) thuộc
phạm vi điều chỉnh của LDN 2005, mà không đề cập đến công tác QLNN về
ĐKKD đối với DN có vốn đầu tư nước ngoài, Hợp tác xã, Hộ kinh doanh hay
đăng ký thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, đăng ký thay đổi, bổ sung, sửa
đổi, giải thể, chia tách, sáp nhập của DN.
9
+ Pháp luật về ĐKKD đối với DN trong nước ở nước ta từ năm 1990 cho
đến nay nhưng chủ yếu tập trung vào giai đoạn 1999-2007.
+ Thực tiễn thực hiện chức năng QLNN về ĐKKD đối với DN trong nước ở
một số địa phương (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang,...)
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể để thực hiện đề tài
này là: phân tích, tổng hợp, khảo sát, kết hợp phương pháp thống kê, phương
pháp hệ thống, trao đổi trực tiếp với cơ quan thực hiện chức năng QLNN về
ĐKKD đối với DN trong nước.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Những kiến nghị của Đề tài sẽ góp phần nhận thức đúng và hoàn thiện các
quy định của pháp luật về ĐKKD, góp phần nâng cao hiệu quả QLNN về ĐKKD
đối với DN trong nước ở nước ta. Do vậy, Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy chuyên đề và nghiệp vụ QLNN về ĐKKD
đối với DN trong nước cũng như cho cán bộ làm công tác thực tiễn liên quan đến
QLNN về ĐKKD.
7. Cơ cấu đề tài:
Đề tài gồm Phần mở đầu, 02 chương, kết luận và tài liệu tham khảo.
- Chương 1: Đăng ký kinh doanh và quản lý nhà nước về đăng ký kinh
doanh đối với doanh nghiệp trong nước.
- Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nước.
10
CHƯƠNG 1
ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KÝ
KINH DOANH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC
1.1. Khái niệm và bản chất của đăng ký kinh doanh
1.1.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh:
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khi tiến hành kinh doanh, chủ thể
phải thực hiện ĐKKD, đây là hành vi mang tính chất tiền đề khá quan trọng. Nhà
làm luật tại Việt Nam chưa có định nghĩa khái niệm ĐKKD dù thuật ngữ này
được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản pháp luật kinh tế như Luật Công ty
1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) 1990, LDN 1999, LDN 2005, Luật
Đầu tư 2005, Luật Thương mại 2005, các luật chuyên ngành khác (Bộ luật Hình
sự, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính,…) và các văn bản pháp
luật hướng dẫn thi hành. Nhìn chung, có thể thấy khái niệm ĐKKD được các nhà
nghiên cứu lý luận và các nhà hoạt động thực tiễn tiếp cận ở hai khía cạnh như
sau:
- Ở khía cạnh thứ nhất, ĐKKD là hoạt động trong đó nhà đầu tư khai báo
với cơ quan QLNN về ĐKKD và giới kinh doanh về dự kiến hoạt động kinh
doanh của mình.
- Ở khía cạnh thứ hai, ĐKKD là một thủ tục hành chính bắt buộc, là biện
pháp để Nhà nước quản lý hoạt động của các DN.
Từ hai cách tiếp cận như trên, chúng tôi cho rằng: “Đăng ký kinh doanh là
hoạt động của người kinh doanh nhằm khai trình với cơ quan nhà nước và giới
kinh doanh về hoạt động kinh doanh của mình và được Nhà nước ghi nhận bằng
hình thức cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”.
11
Thật vậy, theo quy định của LDN hiện hành (2005) trước khi tiến hành
ĐKKD người thành lập DN phải dự liệu, kế hoạch những thông tin cơ bản nhất
của DN (bao gồm: loại hình DN; tên gọi, địa chỉ trụ sở, vốn điều lệ của DN; các
ngành nghề DN kinh doanh; người đại diện DN trước pháp luật; cơ cấu góp vốn,
cơ cấu tổ chức hoạt động và các vấn đề cơ bản khác của DN được quy định trong
Điều lệ Công ty phù hợp với LDN) và thông báo đăng ký với cơ quan ĐKKD.
Cơ quan ĐKKD xem xét và nếu những thông tin trên về mặt hình thức không
trái với quy định của LDN thì sẽ cấp giấy chứng nhận (GCN) ĐKKD cho DN.
Thời gian xem xét thông tin và cấp GCN ĐKKD là 10 ngày làm việc kể từ khi
nộp đầy đủ hồ sơ thông tin hợp lệ. Theo Khoản 2 Điều 15 của LDN 2005 thì Nhà
nước chỉ làm thủ tục công nhận cho sự ra đời của một DN, còn bản thân các DN
phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung các thông tin mà mình
đăng ký trước pháp luật.
Mặt khác, theo từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, Nhà xuất bản
Tư pháp – Bộ Tư pháp phối hợp với Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa tháng 11
năm 2006 thì ĐKKD là sự ghi nhận bằng văn bản của CQNN có thẩm quyền về
mặt pháp lý sự ra đời của chủ thể kinh doanh.
ĐKKD được thực hiện theo trình tự, thủ tục luật định, áp dụng thống nhất
trong cả nước.
Khi ĐKKD, các thông tin cần thiết về DN được ghi vào sổ ĐKKD, DN
được cấp GCN ĐKKD và có thể bắt đầu hoạt động.
Tổ chức, cá nhân được yêu cầu cơ quan ĐKKD hướng dẫn về thủ tục, nội
dung ĐKKD, cấp bản sao GCN ĐKKD, GCN thay đổi ĐKKD…và phải trả phí
theo quy định của pháp luật.
12
Việc ĐKKD tạo cơ sở pháp lý cho công tác QLNN về kinh tế, xác nhận sự
tồn tại và hoạt động của DN, cung cấp thông tin cần thiết về DN nhằm tạo thuận
lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ với DN.
1.1.2. Bản chất của đăng ký kinh doanh:
Có thể nói thủ tục thành lập và ĐKKD đối với DN trong nước ở nước ta
đã được thiết lập từ sau khi có Luật Công ty và Luật DNTN 1990. Khi đó, để
thành lập DN nhà đầu đư phải tiến hành hai bước: (1) Giai đoạn xin phép thành
lập DN ở UBND cấp tỉnh hoặc đơn vị hành chính cấp tương đương, nơi dự định
đặt trụ sở chính; (2) Giai đoạn xin cấp GCN ĐKKD tại Sở KH&ĐT. Theo đó, để
tiến hành một hoạt động kinh doanh theo hình thức công ty hay DNTN, thì nhà
đầu tư phải qua hai giai đoạn thủ tục “xin phép thành lập và ĐKKD”. Mỗi giai
đoạn thủ tục này lại cần nhiều loại giấy tờ, con dấu khác nhau (giấy tờ chứng
thực trụ sở giao dịch, phương án kinh doanh và những xác nhận khác về nhân
thân của chủ đầu tư như GCN sức khoẻ, giấy xác nhận không mắc bệnh tâm
thần, xác nhận của UBND xã, phường về hộ khẩu thường trú, xác nhận của công
an xã, phường về đối tượng không thuộc loại người bị kết án tù mà chưa được
xoá án, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xác nhận về vốn của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền, v.v.), do đó để thành lập DNTN hay công ty, nhà đầu tư tốn
rất nhiều thời gian (từ 3 tháng đến 14 tháng) cũng như chi phí.
Theo Thông tư liên tịch 05/1998/TTLT-KH&ĐT-TP ngày 10/7/1998, thủ
tục thành lập và ĐKKD đối với DNTN và công ty tuy có đơn giản hơn đôi chút
nhằm thực hiện chương trình cải cách hành chính theo cơ chế “1 cửa, 1 dấu”
nhưng rõ ràng vẫn là thủ tục hành chính 2 bước (xin phép thành lập và ĐKKD).
13
Nhằm khắc phục những hạn chế trên, thực hiện cải cách thủ tục hành
chính trong việc thành lập DN, cũng như để cụ thể hoá quyền tự do kinh doanh
theo quy định tại Điều 57 Hiến pháp 1992, LDN 1999 ra đời thay thế Luật Công
ty và Luật DNTN 1990, quy định: thành lập DN là quyền của công dân, không
phải xin phép cơ quan nhà nước (CQNN), CQNN có nghĩa vụ ĐKKD để xác lập
quyền kinh doanh của công dân, có nghĩa vụ bảo vệ quyền sở hữu tên DN khi
ĐKKD(1); công dân có quyền tự do lựa chọn quy mô, loại hình tổ chức kinh
doanh; công dân có quyền tự do lựa chọn thị trường, địa bàn kinh doanh; công
dân có quyền tự do lựa chọn ngành, nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm.
Theo đó, muốn thành lập DN chỉ cần thực hiện ĐKKD. Như vậy, pháp luật về
ĐKKD đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ xin phép thành lập DN, chuyển sang chế độ
đăng ký thành lập DN, coi việc thành lập DN và ĐKKD là quyền của công dân,
tổ chức. Phạm vi kinh doanh của DN không bị bó hẹp trong “những ngành nghề
mà Nhà nước cho phép” theo cơ chế “xin-cho” mà được mở rộng sang hình thức
“được làm những gì mà Nhà nước không cấm”.
LDN 2005 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2006) tiếp tục kế thừa LDN 1999 và
phát huy tối đa trong việc củng cố và mở rộng quyền tự do kinh doanh, thành lập
DN của các nhà đầu tư không phân biệt đó là nhà đầu tư trong nước hay nước
ngoài. LDN 2005 đã đơn giản hóa trình tự, thủ tục ĐKKD, hạn chế tối đa các rào
cản gia nhập thị trường không cần thiết, tạo thuận lợi cho những người có khả
năng thành lập DN biến nguyện vọng kinh doanh của mình thành hiện thực. Điều
15 LDN 2005 quy định người muốn thành lập DN chỉ cần nộp đủ hồ sơ ĐKKD
theo quy định của luật thì có quyền kinh doanh và Điều 11, LDN 2005 quy định
cơ quan ĐKKD không được “từ chối cấp GCN ĐKKD cho người đủ điều kiện
(1): ĐKKD và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá là hai việc độc lập ở hai thời điểm khác nhau phục vụ cho hai mục đích khác
nhau, ĐKKD để khai sinh ra pháp nhân, còn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá là để bảo vệ hình ảnh của pháp nhân, và do vậy,
dường như trong nhận thức của hầu hết các doanh nghiệp, hai việc này thường không được tính toán đồng bộ, dẫn đến một
số khó khăn cho doanh nghiệp khi tiến hành đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu hàng hoá.