Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Phát triển thị trƣờng trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam
NCS: Lê Anh Tuấn
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - ngân hàng
Mã số: 62.31.12.01
Họ và tên cán bộ hƣớng dẫn khoa học:
a/ PGS., TS. Lê Văn Hưng
b/ TS. Hoàng Văn Quỳnh
2011
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Thị trường TPCP là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính. Nó
có chức năng thu hút, di chuyển các nguồn vốn từ nơi có khả năng sinh lợi
thấp đến nơi có khả năng sinh lợi cao hơn, từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn;
đáp ứng các yêu cầu về vốn để phát triển kinh tế - xã hội và là công cụ hữu
hiệu của Chính phủ trong quá trình điều hành vĩ mô nền kinh tế.
Trải qua hàng chục năm hình thành và phát triển, thị trường TPCP ở
Việt Nam đã khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong việc huy động
vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển; góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn
định nền tài chính quốc gia, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy quá trình phát triển
của thị trường tài chính. Sự có mặt của TTCK và thị trường TPCP, đã góp
phần khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường tài chính, tạo cơ hội
cho việc luân chuyển vốn đầu tư, đáp ứng yêu cầu về vốn trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ở Việt Nam, qua 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 - 2010, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng, đất
nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
7,2%/năm, đến năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt
1.200 USD; để phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại hoá và đẩy nhanh tiến trình mở cửa hội nhập kinh
tế quốc tế, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7 - 8%/năm, GDP bình quân đầu
người đạt khoảng 3.000 - 3.200 USD, đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải đầu tư
một lượng vốn khá lớn để phát triển kinh tế - xã hội. Huy động vốn thông qua
thị trường TPCP thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan, là kênh
huy động vốn quan trọng cho NSNN và cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, trong
quá trình hoạt động thị trường TPCP ở Việt Nam còn bộc lộ không ít nhược
điểm, chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng của nền kinh tế; thị trường sơ
cấp và thị trường thứ cấp còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Để khai thác có
hiệu quả các nguồn vốn thông qua thị trường TPCP, đáp ứng nhu cầu về vốn
3
cho NSNN và cho đầu tư phát triển, đòi hỏi thị trường TPCP phải ngày càng
được củng cố, phát triển và hoàn thiện hơn nữa.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn đề tài:“Phát triển Thị trường
trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam” để nghiên cứu.
2. Tổng quan về Đề tài nghiên cứu:
Những công trình nghiên cứu về trái phiếu và thị trường trái phiếu nói
chung, TPCP và thị trường TPCP nói riêng không nhiều và phạm vi, mức độ
nghiên cứu cũng rất khác nhau. Một số công trình tiêu biểu, đó là: Luận án
Tiến sĩ của TS. Trần Xuân Hà (2004), “Sử dụng công cụ TPCP để huy động
vốn cho cho đầu tư phát triển ở Việt Nam”; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ của PGS.,TS. Lê Văn Hưng - KBNN (2005), “Các giải pháp nhằm tăng
cường huy động vốn cho đầu tư phát triển của Nhà nước, giai đoạn 2005 -
2010”; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành - Ban Huy động vốn, KBNN
(2006), “Huy động nguồn vốn trong nước để bù đắp bội chi NSNN và góp
phần kiềm chế lạm phát ở Việt Nam"; Đề tài cấp ngành - Ban Huy động vốn,
KBNN, (2007), “Xây dựng trang thông tin về thị trường trái phiếu Chính
phủ"; Đề án của Vụ Tài chính Ngân hàng - Bộ Tài chính (2008), “Xây dựng thị
trường giao dịch trái phiếu Chính phủ chuyên biệt”.
Các công trình trên đây, ở các góc độ và mức độ khác nhau đã tiếp cận,
nghiên cứu về TPCP, thị trường TPCP và đề xuất các giải pháp phát triển thị
trường TPCP; tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu cả về lý luận,
thực tiễn và đưa ra hệ thống giải pháp cụ thể đối với việc phát triển thị trường
TPCP ở Việt Nam, đây cũng chính là vấn đề mà Luận án tập trung nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu của Luận án
- Hệ thống, khái quát và luận giải để làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ
bản về trái phiếu Chính phủ và thị trường trái phiếu Chính phủ; làm sáng tỏ sự
tồn tại tất yếu khách quan, vai trò của thị trường TPCP trong nền kinh tế. Trên
cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và phát triển thị trường TPCP của một
số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, qua đó rút ra những bài học kinh
nghiệm trong quá trình phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP.
4
- Đánh giá thực trạng hoạt động thị trường TPCP của Việt Nam; qua đó
làm rõ những mặt đã làm được, những mặt còn hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế để làm căn cứ, cơ sở cho việc đưa ra các nhóm
giải pháp phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam.
- Đề xuất các quan điểm, mục tiêu phát triển thị trường TPCP ở Việt
Nam, trên cơ sở đó đưa ra các nhóm giải pháp, lộ trình phát triển và hoàn thiện
thị trường TPCP ở Việt Nam trong thời gian tới góp phần vào quá trình phát
triển của thị trường tài chính, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ mở cửa và hội nhập.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về thị trường TPCP ở Việt
Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ
bản về TPCP và thị trường TPCP; hoạt động của thị trường TPCP giai đoạn từ
năm 1990 - 2009 bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp; các giải
pháp phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án đã áp dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp thống kê,
tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu trong quá trình nghiên cứu. Các phương
pháp này dựa trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các kết quả nghiên cứu rút ra từ các
công trình nghiên cứu khoa học của các học giả trong và ngoài nước.
6. Những đóng góp của Luận án
- Hệ thống hoá, tổng quan những lý luận về trái phiếu Chính phủ và thị
trường TPCP. Làm rõ vai trò của thị trường TPCP trong nền kinh tế và những
yêu cầu hình thành, phát triển thị trường TPCP.
- Rút ra những bài học hữu ích từ việc nghiên cứu kinh nghiệm xây
dựng và phát triển thị trường TPCP của một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới.
5
- Phân tích, đánh giá và là rõ thực trạng thị trường TPCP ở Việt Nam
bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp; đánh giá những kết quả đạt
được, hạn chế và nguyên nhân của thị trường TPCP ở Việt Nam thời gian qua.
- Đưa ra quan điểm, mục tiêu phát triển thị trường TPCP ở Việt Nam
giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; đề xuất quan điểm hệ thống
giải pháp, lộ trình nhằm phát triển và hoàn thiện thị trường TPCP ở Việt Nam
thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, danh mục ký hiệu các
chữ viết tắt và danh mục các bảng, Luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Trái phiếu Chính phủ và thị trường trái phiếu Chính phủ.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của thị trường trái phiếu Chính phủ
ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp phát triển và hoàn thiện thị trường trái phiếu
Chính phủ ở Việt Nam.
6
Chƣơng 1
TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ VÀ
THỊ TRƢỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
1.1. Một số vẫn đề cơ bản về trái phiếu Chính phủ
1.1.1. Khái niệm trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu là một chứng chỉ vay nợ của Chính phủ hoặc doanh nghiệp,
thể hiện nghĩa vụ của người phát hành phải trả nợ cho người nắm giữ trái
phiếu một số tiền nhất định, vào những khoảng thời gian nhất định và phải trả
lại khoản tiền gốc khi khoản tiền vay đến hạn. Trái phiếu là loại chứng khoán
nợ, tổ chức phát hành với tư cách là người đi vay, người mua trái phiếu là
người cho vay, hay còn gọi là nhà đầu tư. Đối với chủ thể phát hành, trái phiếu
là phương tiện, công cụ huy động vốn qua thị trường. Đối với nhà đầu tư, trái
phiếu cũng là một phương tiện đầu tư để thu lời. Trái phiếu thể hiện sự ràng
buộc pháp lý giữa tổ chức đi vay và người cho vay. Tổ chức đi vay có trách
nhiệm phải trả cho chủ nợ một khoản tiền gốc và lãi nhất định, đây là một hình
thức tín dụng có nét đặc thù riêng, nó ra đời muộn hơn các hình thức tín dụng
khác và phát triển mạnh trong nền kinh tế hàng hoá, đặc biệt là ở những quốc
gia có thị trường chứng khoán phát triển.
Trái phiếu có nhiều loại khác nhau, có loại do Chính phủ phát hành, có
loại do chính quyền địa phương phát hành, có loại do các công ty phát hành,
có loại do ngân hàng hoặc do các định chế tài chính khác phát hành. Từ những
đặc điểm chung nêu trên có thể đưa ra khái niệm về Trái phiếu Chính phủ như
sau: Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ, do Chính phủ phát
hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ
đối với người sở hữu trái phiếu.
1.1.2. Phân loại trái phiếu Chính phủ
1.1.2.1. Phân loại theo kỳ hạn và mục đích phát hành
Để đáp ứng nhu cầu chi của NSNN, Chính phủ các nước thường phát
hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và các tổ
chức kinh tế xã hội. Chính phủ một quốc gia luôn được xem là chủ thể phát
hành có uy tín nhất trên thị trường. TPCP là tên gọi chung của các loại trái
7
phiếu do các cơ quan, tổ chức được Chính phủ chỉ định cho phép phát hành và
được Chính phủ đảm bảo thanh toán.
Mục đích của việc phát hành trái phiếu Chính phủ là nhằm huy động
vốn để bù đắp thiếu hụt NSNN, đầu tư xây dựng các công trình, dự án trọng
điểm hoặc để xây dựng, thực hiện các chương trình mục tiêu của Chính phủ.
Nguồn thanh toán trái TPCP chủ yếu lấy từ NSNN hoặc nguồn vốn thu hồi
trực tiếp từ các công trình được đầu tư từ nguồn vốn phát hành TPCP mang lại.
Do vậy, TPCP có tính an toàn cao, tính rủi ro thấp bởi vì nó được đảm bảo trả
nợ bằng nguồn vốn của NSNN.
Đối với các loại trái phiếu do KBNN phát hành, nguồn vốn thanh toán
được lấy từ nguồn vốn NSNN; còn đối với các loại trái phiếu do các cơ quan
khác được Chính phủ cho phép phát hành nguồn vốn thanh toán được lấy trực
tiếp từ nguồn thu của các chương trình, dự án đó mang lại, trong trường hợp
nếu các cơ quan được Chính phủ cho phép phát hành không có đủ khả năng
thanh toán các khoản nợ thì Chính phủ sẽ đứng ra trả nợ.
Tuỳ theo đặc điểm của hệ thống chính trị, mức độ phát triển của thị
trường tài chính, mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia trong từng thời kỳ mà TPCP có các tên gọi khác nhau, được phát hành,
thanh toán, quản lý bởi các tổ chức khác nhau tuỳ theo quy định của mỗi nước.
Trái phiếu Chính phủ có nhiều loại khác nhau, nếu căn cứ vào kỳ hạn và mục
đích phát hành thông thường TPCP được chia thành: Tín phiếu Kho bạc; trái
phiếu kho bạc; trái phiếu công trình TW; trái phiếu đầu tư; trái phiếu ngoại tệ;
công trái xây dựng tổ quốc (Quốc trái)...
+ Tín phiếu Kho bạc: Là loại TPCP có kỳ hạn dưới 1 năm, mục đích
của việc phát hành Tín phiếu Kho bạc là nhằm phát triển thị trường tiền tệ và
huy động vốn để bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN trong năm tài chính. Tín
phiếu Kho bạc được phát hành theo phương thức đấu thầu qua Sở giao dịch
NHNN hoặc một tổ chức khác tùy theo quy định của mỗi quốc gia, dưới hình
thức chiết khấu mệnh giá, khối lượng và lãi suất Tín phiếu Kho bạc được hình
thành qua kết quả đấu thầu. Bộ Tài chính có thể uỷ thác cho NHNN, NHTM
Nhà nước phát hành, thanh toán Tín phiếu Kho bạc. Toàn bộ khoản vay từ việc
8
phát hành Tín phiếu Kho bạc được tập trung vào ngân sách Nhà nước để sử
dụng theo quy định; ngân sách Nhà nước đảm bảo nguồn thanh toán gốc, lãi
Tín phiếu Kho bạc và chi phí tổ chức phát hành, thanh toán cho các tổ chức
nhận uỷ thác phát hành. Tín phiếu Kho bạc được giao dịch trên thị trường Mở
hoặc được chiết khấu tại Sở giao dịch của NHNN.
+ Trái phiếu kho bạc: Là loại TPCP có kỳ hạn từ 01 năm trở lên, phát
hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt của NSNN hàng năm. Nguồn vốn
thanh toán gốc và lãi Trái phiếu kho bạc được lấy từ nguồn vốn NSNN; vì vậy,
loại trái phiếu này có độ rủi ro không đáng kể. Trái phiếu kho bạc được bán lẻ
qua hệ thống KBNN hoặc đấu thầu qua TTGDCK, Sở GDCK, bảo lãnh phát
hành và đại lý phát hành. Lãi suất trái phiếu kho bạc do Bộ trưởng Bộ Tài
chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường tài chính tại thời
điểm phát hành. Trường hợp đấu thầu lãi suất thì lãi suất hình thành qua kết
quả đấu thầu.
+ Trái phiếu công trình TW: Là loại TPCP có kỳ hạn từ 01 năm trở
lên, phát hành nhằm huy động vốn theo quyết định của Chính phủ để đầu tư
cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách Trung ương đã ghi trong
kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Trái phiếu công
trình Trung ương được phát hành theo phương thức bán lẻ, đấu thầu hoặc bảo
lãnh phát hành. Lãi suất Trái phiếu công trình Trung ương do Bộ trưởng Bộ
Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường tài chính tại
thời điểm phát hành, nếu đấu thầu lãi suất thì lãi suất được hình thành theo kết
quả đấu thầu. Các khoản thu từ phát hành Trái phiếu công trình Trung ương
được tập trung vào ngân sách TW để chi cho các công trình đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt. NSTW đảm bảo việc thanh toán gốc, lãi và phí
đối với trái phiếu công trình Trung ương.
+ Trái phiếu đầu tƣ: Là loại TPCP có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do các
tổ chức tài chính Nhà nước và các tổ chức tài chính, tín dụng được Chính phủ
chỉ định phát hành nhằm huy động vốn để đầu tư theo chính sách của Chính
phủ. Nếu phát hành theo phương thức bán lẻ thì lãi suất trái phiếu do Bộ
trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường tài
9
chính và nhu cầu vốn của các tổ chức phát hành; nếu phát hành theo phương
thức đấu thầu thì lãi suất hình thành theo kết quả đấu thầu trong giới hạn trần
lãi suất đã được Bộ Tài chính quy định. Tiền thu từ phát hành trái phiếu đầu tư
phải được theo dõi riêng và chỉ sử dụng cho mục tiêu kinh tế đã được Chính
phủ phê duyệt. Tổ chức phát hành có trách nhiệm thanh toán gốc, lãi các trái
phiếu đầu tư đã phát hành đến hạn thanh toán và các chi phí liên quan đến
việc phát hành; NSNN đảm nhận thanh toán một phần hay toàn bộ lãi trái
phiếu hoặc cấp bù chênh lệch lãi suất cho tổ chức phát hành theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ.
+ Trái phiếu ngoại tệ: Là TPCP có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do Bộ Tài
chính phát hành, huy động vốn để đầu tư cho các mục tiêu theo chỉ định của
Chính phủ. Đồng tiền phát hành là ngoại tệ tự do chuyển đổi và được Bộ
trưởng Bộ Tài chính quyết định cho từng đợt phát hành. Trái phiếu ngoại tệ
được bán lẻ qua hệ thống KBNN hoặc đấu thầu qua NHNN hoặc đấu thầu qua
Sở Giao dịch Chứng khoán. NSNN đảm bảo thanh toán gốc, lãi trái phiếu
ngoại tệ khi đến hạn.
+ Công trái xây dựng tổ quốc: Công trái xây dựng tổ quốc phát hành
nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân, các tầng lớp dân cư trong xã hội để
đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết
yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước.
Việc mua công trái thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. Nhà nước đảm bảo
giá trị công trái và bảo hộ quyền sở hữu, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của người sở hữu công trái.
1.1.2.2. Phân loại theo lợi tức trái phiếu
- Trái phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác
định theo một tỷ lệ phần trăm (%) cố định theo mệnh giá.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi (thả nổi): Lợi tức của trái phiếu được trả
trong các kỳ có sự khác nhau được tính theo một lãi suất có sự biến đổi theo
một lãi suất tham chiếu.
- Trái phiếu có lãi suất bằng không (zero - coupon Bonds): Là loại trái
phiếu mà người mua không nhận được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn
10
mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó
đáo hạn.
1.1.2.3. Phân loại theo hình thức trái phiếu
- Trái phiếu vô danh: Là loại trái phiếu không ghi tên của người mua
trên chứng chỉ trái phiếu hoặc trong sổ sách của tổ chức phát hành. Người nắm
giữ trái phiếu là người được hưởng quyền lợi của chủ sở hữu trái phiếu theo
quy định.
- Trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên nhà đầu tư trên chứng
chỉ trái phiếu hoặc trong sổ của tổ chức phát hành.
Ngoài cách phân loại chủ yếu nêu trên, người ta còn có nhiều cách phân
loại khác nhau như: Căn cứ vào mức độ rủi ro tín dụng, vào tính chất của trái
phiếu và vào phạm vi phát hành (trái phiếu trong nước và trái phiếu quốc tế),...
1.1.3. Đặc điểm của trái phiếu Chính phủ
1.1.3.1. Tính sinh lời thấp
Trái phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ, khi đầu tư vào
trái phiếu tức là nhà đầu tư sẽ thu được một khoản lợi tức mong đợi trong
tương lai; với uy tín của chủ thể phát hành là Chính phủ và nguồn vốn thanh
toán TPCP khi đến hạn được đảm bảo bằng nguồn vốn của NSNN; vì vậy, về
nguyên tắc, lãi suất TPCP phải thấp hơn lãi suất thị trường vay nợ cùng kỳ
hạn, do đó tính sinh lời của TPCP sẽ không cao so với các công cụ nợ khác
trên thị trường, đối với TPCP có các khoản lợi tức sau:
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất trái phiếu thường được ghi trên chứng
chỉ trái phiếu hoặc tổ chức phát hành công bố, lãi suất danh nghĩa có tính ổn
định cao vì tỷ lệ lãi suất trái phiếu và mệnh giá là cố định trong một kỳ hạn.
Lãi suất trái phiếu mới chỉ phản ánh được chủ thể phát hành phải trả lãi trái
phiếu đó là bao nhiêu; điều đáng quan tâm ở đây là lãi suất hoàn vốn, lãi suất
hoàn vốn hay nói một cách chính xác hơn là lãi suất hoàn vốn nội bộ (Internal
rate of return - IRR) là lãi suất mà với mức lãi suất đó sẽ làm cho giá trị hiện
tại của các khoản tiền thu được trong tương lai do đầu tư đưa lại bằng với giá
trị hiện tại của khoản vốn đầu tư; lãi suất hoàn vốn là một thước đo mức sinh
lời của trái phiếu cũng như đối với bất kỳ khoản đầu tư nào. Giá trị hiện tại và
11
lãi suất hoàn vốn của một trái phiếu coupon có quan hệ nghịch đảo, giá càng
cao thì lãi suất hoàn vốn càng thấp và ngược lại. Khi giá trái phiếu coupon
được đặt bằng mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn bằng lãi suất của cuống phiếu.
Lãi suất hoàn vốn lớn hơn lãi suất coupon khi giá trái phiếu thấp hơn mệnh
giá.
Giá trị hiện tại của trái phiếu coupon được tính theo công thức sau:
n
i
F
n
i
C
i
C
i
C
i
C
Pb
1 1
..... 3
1
2
1 1
(1.1)
Trong đó:
C : Là tiền coupon hàng năm (tiền lãi trái phiếu hàng năm)
F : Là mệnh giá trái phiếu (giá trị hoàn vốn của trái phiếu)
N : Là số năm tới ngày đáo hạn
Pb: Là giá của trái phiếu coupon
i : Là tỷ lệ chiết khấu (lãi suất) được xác định theo lãi suất thị
trường hoặc lãi suất trù tính của người đầu tư
Với trái phiếu chiết khấu, giá trị hiện tại được tính như sau
n
i
F
Pd
1
(1.2)
Trong đó:
F : Là mệnh giá trái phiếu.
n : Là số năm tới ngày đáo hạn.
PDs : Là giá của trái phiếu chiết khấu.
i : Là tỷ lệ chiết khấu (lãi suất) được xác định theo lãi suất thị
trường hoặc lãi suất trù tính của người đầu tư.
- Lãi suất hoàn vốn hiện hành: Được hình thành khi mua, bán trái phiếu
trên thị trường và là số đo gần đúng với lãi suất hoàn vốn; khi giá mua (hoặc
bán) trái phiếu bằng mệnh giá thì lãi suất hoàn vốn hiện hành chính bằng lãi
suất hoàn vốn, nghĩa là giá trái phiếu càng gần với mệnh giá thì lãi suất hoàn
vốn hiện hành càng gần với lãi suất hoàn vốn. Như vậy, lãi suất hiện hành biến
động cùng chiều với lãi suất hoàn vốn.
12
Đối với trái phiếu có cuống thanh toán lãi, lãi suất hoàn vốn hiện hành
được xác định như sau:
b
P
C
c
I
(1.3)
Trong đó:
Ic : Là lãi suất hoàn vốn hiện hành
Pb : Là giá trái phiếu coupon (giá trái phiếu hiện hành)
C : Là tiền lãi coupon hàng năm (tiền lãi trái phiếu hàng năm)
Đối với trái phiếu chiết khấu, lãi suất hoàn vốn được tính như sau:
Sè ngµy tíi khi ¸o h¹n
360
F
d
F P
I
d
(1.4)
Trong đó:
I : Là lãi suất hoàn vốn
F : Là mệnh giá của trái phiếu chiết khấu
PDs: Là giá mua trái phiếu chiết khấu
- Lợi tức đáo hạn hay còn gọi là lợi tức đầu tư trái phiếu là mức sinh lời
của trái phiếu dựa trên lãi suất; thời gian đáo hạn và giá mua trái phiếu trên thị
trường. Lợi tức của một trái phiếu không nhất thiết phải bằng lãi suất trái phiếu
đó. Lợi tức hoàn vốn của trái phiếu được xác định như sau:
Pt
C Pt
Pt
1
Re
(1.5)
Trong đó:
Re : Là lợi tức trái phiếu từ t đến t+1
Pt
: Là giá trái phiếu ở thời điểm t
Pt+1 : Là giá trái phiếu ở thời điểm t+1
C : Là tiền lãi coupon
Nếu lãi suất thị trường tăng sẽ làm sụt giảm giá trái phiếu, dẫn đến tình
trạng thua lỗ về vốn đối với những trái phiếu mà thời gian đến ngày đáo hạn
dài hơn thời gian lưu giữ trái phiếu. Lãi suất thị trường tăng quá cao có thể dẫn
13
đến tình trạng lỗ vốn quá lớn, khi mức lỗ về vốn cao hơn mức lãi suất hiện
hành ban đầu thì lãi suất kỳ hạn của trái phiếu trở thành lãi suất âm. Lãi suất
thị trường giảm sẽ làm cho giá trái phiếu tăng lên và sẽ có mức lời về vốn đối
với những trái phiếu mà thời gian đến ngày đáo hạn dài hơn thời gian lưu giữ
trái phiếu.
1.1.3.2. Tính rủi ro thấp
Trái phiếu nào cũng có tính rủi ro, mức độ cao hay thấp thì hoàn toàn
phụ thuộc vào tính chất, đặc thù của từng loại trái phiếu. Khi nhà đầu tư đầu tư
vào trái phiếu đều kỳ vọng vào tiền lãi mà không tham gia trực tiếp vào quá
trình quản lý của tổ chức phát hành trái phiếu; tuy nhiên, trước lúc đầu tư vào
trái phiếu họ cũng phải so sánh, cân nhắc giữa tiền lời thu được từ lãi trái
phiếu so với lợi nhuận thu được từ việc đầu tư vào các lĩnh vực khác. Khi nền
kinh tế có những biến động tiêu cực như: Tỷ lệ lạm phát, lãi suất thị trường
cao, kinh tế khủng khoảng,... thì những yếu tố này cũng có những ảnh hưởng
không nhỏ đến rủi ro trong việc đầu tư vào trái phiếu. Khi trái phiếu được lưu
hành, giá của trái phiếu được hình thành trên thị trường do cung và cầu quyết
định. Rủi ro đối với đầu tư vào trái phiếu thể hiện trên hai khía cạnh đó là: Khi
lãi suất thị trường tăng làm cho giá trái phiếu giảm điều này ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi tức đầu tư vào trái phiếu. Trong trường hợp trái phiếu có tính
thanh khoản thấp thì việc chuyển đổi trái phiếu ra tiền mặt sẽ gặp nhiều khó
khăn.
Các loại trái phiếu khác nhau có mức độ rủi ro khác nhau; cụ thể, TPCP
có mức độ rủi ro thấp nhất vì nguồn vốn thanh toán TPCP khi đến hạn được
đảm bảo bằng nguồn NSNN; trái phiếu chính quyền địa phương thì được đảm
bảo bằng ngân sách của địa phương; trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh trong
trường hợp nhà phát hành không có khả năng trả nợ thì Chính phủ sẽ hỗ trợ;
trong khi đó trái phiếu công ty thì có mức độ rủi ro cao hơn vì nguồn vốn đảm
bảo thanh toán các khoản nợ phụ thuộc nhiều vào khả năng tài chính của chủ
thể phát hành.
14
1.1.3.3. Tính thanh khoản cao
Đó chính là khả năng chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt, mỗi một loại
trái phiếu khác nhau có khả năng thanh khoản khác nhau; TPCP thông thường
có tính thanh khoản cao hơn so với các loại trái phiếu khác. Tín phiếu Kho bạc
là loại TPCP có tính thanh khoản cao nhất bởi vì kỳ hạn của nó ngắn (dưới 1
năm), nó là một trong những công cụ quan trọng của thị trường tiền tệ; Tín
phiếu Kho bạc cũng là một yếu tố cấu thành khối lượng tiền trong lưu thông,
nó được mua bán trên thị trường tiền tệ; trái phiếu kho bạc thường có kỳ hạn từ
1 năm trở lên, do vậy tín thanh khoản của TPKB thấp hơn Tín phiếu Kho bạc;
TPKB đáp ứng đủ điều kiện thì được giao dịch trên thị trường thứ cấp, trong
quá trình này NHTW cũng tham gia với vai trò là chiết khấu ngắn hạn các
công cụ nợ dài hạn, vì thế mà TPKB cũng là một công cụ nợ có tính thanh
khoản khá cao.
Trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu do cơ quan Chính phủ
phát hành có tính thanh khoản thấp hơn Tín phiếu Kho bạc và trái phiếu kho
bạc. Thông qua việc nắm bắt được đặc điểm chung của trái phiếu và các đặc
điểm riêng của từng loại trái phiếu, giúp cho các nhà đầu tư trong việc ra quyết
định khi tham gia đầu tư vào thị trường nợ đầy hấp dẫn này.
1.1.4. Các yếu tố cơ bản của trái phiếu Chính phủ
1.1.4.1. Mệnh giá trái phiếu
Mệnh giá trái phiếu hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là
giá trị được ghi trên trái phiếu; giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá
trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà tổ chức phát hành phải
trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền tổ chức phát hành phải hoàn trả khi trái
phiếu đến hạn.
1.1.4.2. Kỳ hạn trái phiếu
Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày Tổ chức phát hành
hoàn trả tiền vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán
lần cuối được gọi là ngày đáo hạn của trái phiếu. Có nhiều cách phân loại kỳ
hạn trái phiếu khác nhau, trên thực tế người ta thường phân ra các loại kỳ hạn
15
sau: Trái phiếu ngắn hạn (có kỳ hạn dưới 01 năm - tín phiếu); trái phiếu trung
hạn (có kỳ hạn từ 1 đến 5 năm); trái phiếu dài hạn (có kỳ hạn từ 5 năm trở lên).
1.1.4.3. Lãi suất trái phiếu
Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc tổ chức phát
hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa; lãi suất này được xác định theo
tỷ lệ phần trăm (%) so với mệnh giá của trái phiếu và cũng là một căn cứ để
xác định lợi tức của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu là một trong những yếu tố cơ
bản nhất của trái phiếu, đó là tiêu điểm quan tâm của nhà đầu tư; do vậy, nó có
ảnh hưởng nhiều đến giá của trái phiếu. Lãi suất trái phiếu phụ thuộc nhiều
vào các yếu tố như thời hạn của trái phiếu, chỉ số lạm phát và những biến động
khác của thị trường.
1.1.4.4. Giá phát hành
Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường, giá
phát hành được xác định theo tỷ lệ (%) của mệnh giá. Tuỳ theo tình hình của
thị trường và của tổ chức phát hành để xác định giá phát hành một cách hợp lý.
Có thể phân biệt ra 3 trường hợp sau:
+ Giá phát hành bằng mệnh giá.
+ Giá phát hành thấp hơn mệnh giá.
+ Giá phát hành cao hơn mệnh giá.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về thị trƣờng trái phiếu Chính phủ
1.2.1. Khái niệm thị trƣờng trái phiếu Chính phủ
Thị trường TPCP là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra
các hoạt động phát hành, niêm yết, giao dịch, mua, bán các loại TPCP. Trái
phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ phát hành, TPCP là
một trong những công cụ nợ của Chính phủ chính vì vậy mà thị trường TPCP
được coi là thị trường nợ. Trên thực tế, với sự đa dạng của TPCP về kỳ hạn, lãi
suất; do vậy, TPCP không những tham gia vào thị trường tiền tệ mà còn tham
gia vào thị trường vốn. Tín phiếu Kho bạc sau khi phát hành được mua, bán
trên thị trường tiền tệ hoặc chiết khấu, tái chiết khấu cầm cố tại ngân hàng theo
quy định của Nhà nước, Tín phiếu Kho bạc là một công cụ quan trọng để