Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của NHTM ở việt nam phần 2
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
66
Chương 2
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Ở hầu hết các nước, ngành ngân hàng được coi là một khu vực then
chốt đảm bảo cho nền kinh tế quốc gia hoạt động một cách nhịp nhàng, vì vậy
khu vực này được chính phủ các nước đặc biệt quan tâm, và là một trong
những ngành được giám sát chặt chẽ nhất trong nền kinh tế, đặc biệt là tại các
nước đang phát triển. Tuy nhiên, hoạt động của các ngân hàng tại các nước
này thường bị chỉ trích mạnh mẽ đó là thiếu sức cạnh tranh và còn thụ động
trong hoạt động. Ngoài ra, cơ chế và bộ máy quản lý quan liêu ở những nước
đang phát triển cũng làm cho hoạt động của các ngân hàng thương mại còn
nhiều hạn chế. Kỹ năng quản trị ngân hàng cũng còn yếu làm cho các ngân
hàng thương mại không đạt được hiệu quả chi phí, ví dụ, các khoản cho vay
không có khả năng thu hồi đã làm tăng chi phí và dẫn đến mất khả năng thanh
toán của ngân hàng.
Hơn 20 năm qua, nhờ có đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã kiểm soát
được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho tăng
trưởng kinh tế cao và dần dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
hoá và công nghiệp hoá, thu được nhiều thành tựu to lớn trong việc xoá đói
giảm nghèo, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Cũng nhờ chính sách đổi
mới kinh tế trong 20 năm qua, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những thay
đổi to lớn và Việt Nam đã xây dựng được các cơ sở quan trọng về tiền tệ và
hệ thống ngân hàng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường.
67
Hiện nay, trong quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, Việt Nam đã
đạt được nhiều thay đổi trong ngành ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập và chưa được quan
tâm đúng mức. Để có thể xây dựng được một hệ thống ngân hàng hiện đại có
đủ năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập, chúng ta cần đánh giá lại hoạt
động của ngân hàng thương Việt Nam trong thời gian qua một cách khách
quan. Qua đó giúp chúng ta nhìn thấy bức tranh toàn cảnh của hệ thống ngân
hàng Việt Nam điểm mạnh là gì và điểm yếu là gì? Có như vậy mới giúp cho
việc hoạch định chính sách cũng như quản trị ngân hàng thương mại ngày
càng trở lên có hiệu quả hoạt hơn và nhờ đó mà nâng cao hoạt động ngân
hàng, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
2.1. Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam
2.1.1. Hệ thống ngân hàng ở Việt Nam trước 1990
Trước những năm 1988, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức là
hệ thống ngân hàng một cấp bao gồm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hệ
thống chi nhánh từ trung ương đến địa phương phân bố theo địa giới hành
chính. Hệ thống này vừa đảm nhận chức năng quản lý Nhà nước về các mặt
hoạt động tiền tệ, ngân hàng, tín dụng và thanh toán vừa thực hiện chức năng
kinh doanh của một ngân hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng theo mô hình
này đơn thuần chỉ là công cụ để thực hiện các chỉ thị, mệnh lệnh, các chỉ tiêu
kế hoạch tiền tệ của chính phủ giao cho ngân hàng. Tính chất hoạt động của
ngân hàng gần giống như “cơ quan tài chính thứ 2” bên cạnh Bộ tài chính để
cấp phát vốn cho nền kinh tế.
Sau năm 1988 là thời kỳ thực hiện thí điểm hệ thống ngân hàng hai cấp
theo Nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng. Tổ chức hệ thống Ngân hàng theo
Nghị định 53 được thực hiện trong thời kỳ 1988-1990 có ưu điểm là tách
được chức năng kinh doanh khỏi chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước
68
và trao chức năng kinh doanh cho các ngân hàng chuyên doanh. Sơ đồ 2.1 mô
tả khái quát cơ cấu tổ chức của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1988-
1990 theo Nghị định 53.
Sơ đồ 2.1. Tổ chức hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam
giai đoạn 1987-1990
Với mô hình tổ chức mới này các ngân hàng bước đầu chú ý đến hiệu
quả hoạt động bởi vậy đã thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đặc biệt là tín dụng
ngắn hạn, trong đó cho vay vốn lưu động chiến từ 90 đến 95% tổng dư nợ cho
vay nền kinh tế. Tín dụng theo định mức vốn lưu động đã được xóa bỏ, tín
dụng trong thời kỳ này chỉ nhằm bổ sung nhu cầu vốn vượt quá vốn cần thiết
của doanh nghiệp. Điều này đã phát huy được đòn bẩy tín dụng, chống bao
cấp, thu hẹp dần phạm vi cấp phát vốn của ngân sách Nhà nước thông qua tín
dụng. Bằng việc cho vay trong và ngoài hạn mức tín dụng đã bước đầu gắn
được hoạt động tín dụng của các ngân hàng với hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp và buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn hiệu quả hơn. Tuy
Hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam
Ngân hàng Chuyên doanh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chi nhánh NH Nhà nước VN
NH CT VN
NH PT NN VN
NH
ĐT XD VN
NH NT VN
Chi nhánh NH CT
Chi nhánh NH PTNN
Chi nhánh NH ĐT XD
Chi nhánh NH NT
69
nhiên hoạt động của các ngân hàng trong giai đoạn này vẫn còn rất nhiều hạn
chế như:
- Các ngân hàng luôn bị động trong hoạt động của mình do không nắm
được nhu cầu vốn của các đơn vị theo tỷ lệ trên cơ sở định mức. Điều này làm
cho nhu cầu về vốn luôn căng thẳng, áp lực in tiền phục vụ sản xuất và lưu
thông luôn cao hơn hạn mức tín dụng của nền kinh tế.
- Tín dụng ngân sách tăng mạnh và chiếm tỷ trong lớn nếu năm 1986
cho vay ngân sách chỉ chiếm 22% thì đến năm 1990 đã lên tới 74,4%. Điều
này gắn cùng với tỷ lệ lạm phát gia tăng trong thời kỳ này.
- Hoạt động tín dụng của ngân hàng không theo cơ chế hoạch toán kinh
tế thể hiện ở mức lãi như: lãi suất cho vay < lãi suất huy động < tỷ lệ lạm phát
và bình quân lãi suất tiền gửi giai đoạn 1987-1990 là 72% năm, lãi suất cho
vay 51,6% và tỷ lệ lạm phát là 183,8%.
Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém kể trên đó là các ngân hàng
Việt Nam còn bị chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế quản lý cũ vì đây là giai
đoạn nền kinh tế Việt Nam bắt đầu bước những bước đi đầu tiền sang cơ chế
thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, cơ chế quản lý mới chưa hoàn
chỉnh, chưa đủ mạnh để thoát ra khỏi cơ chế cũ.
2.1.2. Hệ thống ngân hàng ở Việt Nam giai đoạn 1991-1999
Giai đoạn này phản ánh nhiều chuyển biến tích cực đối với hoạt động
của hệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt Nam. Hoạt động của các ngân hàng
từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn của nền kinh tế. Ngân hàng đã duy trì
được mức lãi suất dương và tiến dần đến mức lãi suất thị trường, từng bước
đa dạng hóa các hoạt động tín dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới.
Những thành tựu mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt được trong giai
đoạn đổi mới căn bản và toàn diện trong thập kỷ 90 bắt đầu được đánh dấu
70
bằng việc sự ra đời của pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về
các tổ chức tín dụng vào năm 1990. Với hai pháp lệnh này hệ thống ngân
hàng Việt Nam đã được tổ chức tương tự như hệ thống ngân hàng các nước có
nền kinh tế thị trường. Sơ đồ 2.2 dưới đây mô tả tổ chức hệ thống ngân hàng
Việt Nam theo tinh thần pháp lệnh năm 1990.
Sơ đồ 2.2. Tổ chức hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam
theo pháp lệnh về ngân hàng năm 1990
Hệ thống ngân hàng theo pháp lệnh năm 1990 là đã xoá bỏ được tính
chất độc quyền Nhà nước trong hoạt động ngân hàng bằng việc cho phép
thành lập ngân hàng thương mại thuộc nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Mặt
khác, với việc chính phủ cho phép thành lập các ngân hàng liên doanh và chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đã góp phần hỗ trợ cho việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài cũng như nhanh chóng chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại
vào Việt Nam.
Hơn nữa việc cải cách hệ thống ngân hàng lần này đã chú trọng đến vai
trò ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhà nước thể hiện thông qua các
quy định về quản lý dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại nhằm
bảo đảm an toàn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động một cách
lành mạnh, tránh được sự cố đổ vỡ như đã từng xảy ra trước khi có pháp lệnh.
Hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Chi nhánh NH Nhà nước VN
Ngân hàng thương mại
NHTM Nhà nước
NHTM cổ phần
NHTM liên doanh
Chi nhánh NHTM NN