Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghệ thuật trần thuật trong truyện của nguyễn thị thụy vũ
PREMIUM
Số trang
230
Kích thước
105.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
720

Nghệ thuật trần thuật trong truyện của nguyễn thị thụy vũ

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THỊ THU PHƯƠNG

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT

TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN THỊ THỤY VŨ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 82 20 121

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

VĂN HỌC VIỆT NAM

Đà Nẵng – 2019

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Người hướng dẫn khoa học: T.S. Nguyễn Thanh Trường

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Phong Nam

Phản biện 2: TS. Hà Ngọc Hòa

Luận văn được bảo vệ trước

Hội Đồng chấm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Văn học Việt Nam

họp tại Trường Đại học sư phạm vào ngày 06 Tháng 01 năm 2019

Có thể tìm hiểu Luận văn tại:

Thư viện Trường Đại học Sư Phạm – ĐHĐN

Khoa Ngữ Văn – Trường Đại học Sư Phạm - ĐHĐN

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong khoa học nghiên cứu văn học, nghệ thuật trần thuật

được xem như đường dẫn lí thuyết cho quá trình tìm hiểu giá trị của

tác phẩm văn chương. Nghiên cứu yếu tố trần thuật trong văn bản tự

sự là hướng tới xác lập hình thái bản chất các thành tố nghệ thuật

tham gia vào tổ chức, cấu thành nên chỉnh thể nghệ thuật. Ở đó, thế

giới sống trong tác phẩm được xây dựng dựa trên đường dẫn tư duy

nghệ thuật của chủ thể sáng tạo và được biểu hiện qua nhiều hình

thức thể hiện khác nhau. Bởi vậy, quá trình giải mã sáng tác của nhà

văn dưới góc độ nghệ thuật trần thuật là khám phá cách thức xây

dựng các mô thức nghệ thuật trong nhiều mối quan hệ trong và ngoài

văn bản. Đồng thời, qua đó chỉ ra hiệu quả thẩm mĩ in đậm dấu ấn

phong cách của người nghệ sĩ.

Với lối tư duy nghệ thuật sáng tạo, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã

đem đến trong các sáng tác một thế giới sống đa dạng, nhiều sắc màu

hấp dẫn. Ở đấy, từ những đổi thay của bối cảnh xã hội và tư tưởng ý

thức hệ đã hình thành nên góc nhìn vừa mang tính quan niệm vừa

phản ánh chiều sâu tư tưởng. Theo đó, nhà văn đã tái hiện chân thực

cuộc sống nông thôn miền Nam, con người và cả bức tranh văn hóa

miền Nam thời kì Pháp thuộc trên những biểu đồ giá trị mang tính

dấu chỉ cho những dấu mốc thẩm mĩ. Bên cạnh đó, ngòi bút nữ này

còn chạm khắc thành công bầu khí thực ngột ngạt của đô thị Sài Gòn

bị Mỹ xâm chiếm, cùng với đấy là những góc khuất về số phận con

người. Tất cả được cây bút nữ này thể hiện linh hoạt qua các hình

thái điểm nhìn trần thuật như: ngôi kể, kết cấu, không gian, thời gian,

ngôn ngữ, giọng điệu và các chiều kích không gian nghệ thuật khác

2

nhau. Và trên mỗi trục cấu trúc hình thức, người đọc như được đối

thoại với những câu hỏi khắc khoải về cuộc đời. Hơn nữa, các yếu tố

trần thuật ở đó còn là những “khoảng trống” lưu giữ mọi mạch

nguồn của sự sống đang ngày đêm xuôi ngược trong tâm thức mỗi cá

nhân con người. Như vậy, với những thành công nhất định trong

hành trình sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã thực sự tạo

điểm nhấn thẩm mĩ cho sản phẩm tinh thần của mình.

Chọn đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện của Nguyễn

Thị Thụy Vũ, chúng tôi vận dụng lí thuyết trần thuật để hướng tới

tìm hiểu các sáng tác trong một hệ thống, nhằm khái quát nên

những đặc trưng nghệ thuật thể hiện nổi bật, độc đáo. Hơn nữa, từ

hướng nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn xác lập những

đường dẫn khám phá, tìm hiểu những tầm đón đợi trong tác phẩm

của nhà văn. Qua đó khẳng định vị trí, vai trò của tác giả trong

bảng lược đồ văn học miền Nam.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Từ hệ thống tổng thể về sáng tác của Thụy Vũ cho đến đi sâu

nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện của nhà văn chúng tôi

nhận thấy có khá nhiều bài viết, công trình liên quan đến phạm vi

nghiên cứu đề tài như: Phác họa toàn cảnh sinh hoạt 20 năm Văn

học Nghệ thuật miền Nam (Du Tử Lê), Ngôn ngữ văn hóa Sài Gòn

(Lý Tùng Hiểu), Lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam (Trần

Hoài Anh), Trò chuyện với nhà văn Thụy Vũ (Lê Vy, Minh Hiếu),

Hình tượng chủ thể trần thuật trong truyện ngắn Nam Bộ (Lâm Thị

Thiên Lan), Phê bình văn học (Thụy Khê).

Dường như các bài viết, công trình nghiên cứu chỉ mới tập

trung bàn luận, đánh giá một vài khía cạnh nhỏ trên hai giao diện nội

dung phản ánh và một số hình thức thể hiện. Tuy nhiên, để làm rõ

3

các phương diện thuộc về nghệ thuật trần thuật trong truyện của nhà

văn Thụy Vũ vẫn chưa có một công trình nào đánh giá được một

cách trọn vẹn và bao quát. Mà thông qua những bài viết trên, chúng

tôi có thể xêm đó như là nguồn tư liệu để làm căn cứ khám phá tìm

hiểu giá trị tác phẩm văn chương của tác giả Thụy Vũ. Sau một thời

gian tiếp cận truyện của bà Vũ. Chúng tôi nhận kĩ thuật trần thuật

trong truyện của nhà văn vô cùng độc sáng. Nhờ cách thức kể

chuyện khá độc đáo, tác giả đã đưa người đọc vào thế giới tâm hồn

phức tạp của con người dễ dàng hơn. Giúp bạn đọc kết nối được

nhiều chân giá trị của đời sống.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Nghệ thuật trần thuật

trong truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ”.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung vào việc khảo sát vấn đề nghệ thuật trần

thuật trong các tập truyện Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông,

Khung rêu, Thú hoang, Nhang tàn thắp khuya, Ngọn pháo bông, Như

thiên đường lạnh, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên.

Ngoài ra, quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn tìm hiểu một số sáng

tác của các tác giả khác liên quan đến phạm vi khảo sát của đề tài.

4. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp

nghiên cứu sau:

- Phương pháp khảo sát thống kê

Phương pháp này giúp chúng tôi khảo sát, thống kê ngôn ngữ

đậm chất khẩu ngữ, Nam bộ như thành ngữ, tục ngữ, ca dao, tiếng

lóng xuất hiện trong nhiều sáng tác của nhà văn.

4

- Phương pháp phân tích, tổng hợp

Đây là phương pháp chủ đạo, giúp chúng tôi chỉ ra được cũng

như làm rõ đặc trưng tự sự của Nguyễn Thị Thụy Vũ.

- Phương pháp cấu trúc

Phương pháp cấu trúc là xem tác phẩm như một hệ thống bao

gồm các yếu tố trong mối quan hệ mang tương để qua đó hướng tới

xác lập ý nghĩa và chức năng của các yếu tố ấy với nhau.

- Phương pháp liên ngành

Sử dụng phương pháp liên ngành là tích hợp các phương pháp

thi pháp học, tự sự học, văn hóa học nhằm làm sáng rõ hơn về bản

chất của yếu tố trần thuật trong việc góp phần xây dựng nên giá trị

thẩm mĩ cho tác phẩm nghệ thuật.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Về mặt lí luận, đây là công trình nghiên cứu có nhãn quan bao

quát về nghệ thuật trần thuật trong truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ.

Thực hiện đề tài trên chúng tôi mong muốn mang đến cách nhìn

khoa học hơn trong vấn đề tiếp cận các tác phẩm văn xuôi của tác giả

cũng như sự đóng góp nghệ thuật văn chương của nhà văn Thụy Vũ

cho nền văn học dân tộc.

Về mặt thực tiễn, công trình nghiên cứu sẽ là nguồn tài liệu

hữu ích cho quá trình nghiên cứu và khám phá lĩnh hội những chân

giá trị của văn học Miền nam. Đặc biệt, qua đề tài này chúng tôi hi

vọng sẽ mang lại ứng dụng thực tế trong việc đưa một số tác phẩm

của Thụy Vũ vào công tác nghiên cứu. Qua đó, mang đến cho người

người tiếp nhận góc nhìn toàn cảnh về hành trình sáng tạo của nhà

văn này.

5

6. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn được triển khai trong 3 chương:

Chương 1: Điểm nhìn và kết cấu trần thuật trong truyện của

Nguyễn Thị Thụy Vũ.

Chương 2: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện

của Nguyễn Thị Thụy Vũ.

Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện của

NguyễnThị Thụy Vũ.

CHƯƠNG 1

ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU TRẦN THUẬT

TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN THỊ THỤY VŨ

1.1. Điểm nhìn trần thuật

1.1.1. Điểm nhìn bên ngoài, người kể chuyện ẩn mình ngôi

thứ ba

Với kĩ thuật xử lí điểm nhìn bên ngoài, người trần thuật xây

dựng góc nhìn ở một khoảng cách vừa đủ với đối tượng miêu tả.

Người kể chuyện hướng cho mạch truyện kể theo sát biến cố, sự kiện

đời sống xã hội cũng như diễn biến của số phận nhân vật trong tác

phẩm; gián tiếp tựa trên ngôi thứ ba để bao quát hết thảy mọi diễn

biến của truyện kể. Mặc dù chủ thể trần thuật không xuất hiện trực

tiếp và chỉ giữ vai trò là người quan sát, chứng kiến nhưng trước sau

câu chuyện vẫn được kể lại từ điểm nhìn của anh ta.

Nhà văn sử dụng điểm nhìn bên ngoài ngôi thứ ba khá rõ nét

và đậm đặc (Trôi sông). Từ điểm nhìn ngoại quan, người kể chuyện

chỉ một gốc để mà quan sát, dõi theo phức cảm dàn trải, biến cố cuộc

đời của nhân vật (Cho trận gió kinh thiên). Từ điểm nhìn bên ngoài,

6

người kể chuyện đã lặng lẽ để dõi theo biến cố, thay đổi tâm lí của

nhân vật (Nhang tàn thắp khuya). Đặc biệt trong vai người quan sát,

nhà văn tiếp tục phác họa bức tranh cuộc sống trong qua điểm nhìn

tham chiếu bên ngoài để kể lại câu chuyện trong âm điệu lạnh lùng

(Chiều mênh mông, Như thiên đường lạnh).

Bằng lối gia cố cho điểm nhìn bên ngoài với phương thức

khách quan hóa cho mạch truyện kể, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã đem

lại tính thẩm mĩ nhất định cho văn bản nghệ thuật. Qua đó giúp

người trần thuật vừa quán xuyến được sự phát triển của câu chuyện

vừa trực tiếp hoặc gián tiếp chia sẻ, đưa ra ý kiến, thậm chí tạo ra

những thành phần xen chi phối nhịp điệu truyện kể.

1.1.2. Điểm nhìn bên trong, người kể chuyện hiện diện ngôi

thứ nhất

Trong quá trình tổ chức văn bản tự sự, nhà văn luôn chú ý xây

dựng lên những tiêu cự nhìn nội quan không ngoài mục đích theo sát

những hoạt động diễn ra trong thế giới tinh thần nhân vật. Điểm nhìn

bên trong chính là hình thức trần thuật mà chủ thể đặt giao diện nhìn

vào chiều sâu nội giới. Ở đó, người kể chuyện theo ngôi thứ nhất là

người kể chuyện về chính mình, hay kể chuyện của người khác mà

có sự tham của người kể trong câu chuyện về người khác mà họ

chứng kiến. Người kể chuyện sẽ chọn vị trí đứng ở bên trong câu

chuyện như một chủ thể hành động lại vừa là chủ thể diễn ngôn. Bởi

vậy, người kể chuyện được tự do quan sát bàn luận và có khả năng đi

sâu tìm hiểu khám phá thế giới hiện thực trong tác phẩm.

Khảo sát truyện Nguyễn Thị Thụy Vũ, phần lớn truyện của bà

được kể theo ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong như: Tiếng hát,

Đêm tối bao la, Lìa sông, Cây độc không trái, Lao vào lửa, Thú

hoang, Mãnh, Nắng chiều vàng, Đợi chuyến đi xa, Một buổi chiều.

7

Chủ thể trần thuật được cá thể hóa trong “tôi”. “Tôi” vừa giữ vai trò

dẫn dắt mạch truyện kể vừa trực tiếp tham gia vào các tình huống

truyện (Nắng chiều vàng).

Với điểm nhìn bên trong được hiện hữu qua người kể chuyện

ngôi thứ nhất còn có ưu điểm xóa đi khoảng cách của cuộc sống

trong văn bản và ngoài văn bản. Điều này khiến cho độc giả trở

thành người bạn thân thiết gần gũi để nhân vật “tôi” có thể giãi bày

những nỗi niềm khuất lấp trong cuộc sống (Tiếng hát). Sự linh hoạt

của điểm nhìn bên trong kiến tạo sự hấp dẫn cho câu chuyện. Ở đây,

chủ thể trần thuật danh xưng “tôi” không chỉ mang vai trò dẫn dắt

truyện kể mà “tôi” trực tiếp tham gia vào các tình huống truyện (Lao

vào lửa).

Qua điểm nhìn bên trong kết hợp ngôi kể thứ nhất, truyện của

Nguyễn Thị Thụy Vũ đã xác lập được quyền năng cho người trần

thuật xưng “tôi” trong kiến tạo những mạch ngầm chảy bên trong thế

giới hình tượng. Từ đó, ta thấy một hình thái cái tôi linh hoạt, ẩn

mình ở chiều sâu đối tượng miêu tả.

1.1.3. Phối điểm nhìn, người kể chuyện linh hoạt trong

mạch trần thuật

Phối điểm nhìn được xem là cách thức tổ chức đan xen các

điểm nhìn trong liên kết mạch trần thuật. Người kể chuyện lập ngôn

trong các ngôi vai chủ thể khác nhau. Tiến hành khảo sát truyện của

Nguyễn Thị Thụy Vũ, chúng tôi nhận thấy, nhà văn đa dạng hóa

điểm nhìn, qua việc xây dựng nên các điểm nhìn phức hợp, đan cài

trong nhiều mối quan hệ khác nhau của cấu trúc truyện kể.

Lối trần thuật được biểu hiện thông qua các giao diện nhìn đã

giúp cho người trần thuật vừa bao quát được đối tượng miêu tả, vừa

linh hoạt nối kết giữa các tuyến truyện và tạo mối quan hệ với nhiều

8

chủ thể trong câu chuyện kể (Khung rêu). Sự phối điểm nhìn đã được

khơi dòng, chảy qua trạng thái tâm lí nhân vật, tạo nên những ngã rẽ

bất ngờ cho diễn biến truyện kể (Mèo đêm). Trong Khung rêu diễn tiến

mạch trần thuật đặt dưới điểm nhìn vừa bao quát vừa thấu hiểu của

Ngự, nhân vật tự ý thức cuộc đời và nổi bất hạnh của chính mình.

Cách xây dựng và xử lí điểm nhìn đã đạt được thành công nhất

định. Ở đó, các vai trần thuật được xây dựng từ những góc nhìn

ngoại quan trên tinh thần “biết tuốt” đến điểm nhìn nội giới, đi kiếm

tìm những khuôn diện phức tạp của đời sống tinh thần con người.

Đặc biệt, hình thái điểm nhìn còn xuất hiện với dạng thức “tiêu điểm

hóa”, đan xen nhiều giao diện nhìn khác nhau trong mạch truyện kể

đã thể hiện trường nhìn linh hoạt trong khám phá những sắc màu của

đời sống.

1.2. Kết cấu trần thuật

Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, kết cấu tác phẩm luôn là

thành tố quan trọng, góp phần là thể hiện chiều sâu tư tưởng của văn

bản. Với cách tổ chức kết cấu tương phản, kết cấu tâm lí và kết cấu

theo các chùm truyện, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã chứng tỏ sự sáng tạo

trong kết dệt nên bộ khung của nó, qua đó chuyển tải những thông

điệp nghệ thuật sâu sắc đến người đọc.

1.2.1. Kết cấu chùm truyện, thông diễn cho mạch truyện

trung tâm

Kết cấu chùm truyện là lối tổ chức trần thuật theo cơ chế gồm

nhiều câu chuyện đan xen và giữa các câu chuyện luôn có sự móc

nối, liên kết chặt chẽ với nhau, góp phần làm nên tính toàn vẹn cho

cốt truyện trung tâm của tác phẩm. Nguyễn Thị Thụy Vũ đã tạo ra

hình thức kết cấu chùm truyện có sự liên quan về nội dung câu

chuyện, qua đó nhà văn tập trung làm sáng rõ hai chủ đề chính: một

9

là, cuộc sống hôn nhân éo le, mối quan hệ gia đình bị gãy đổ bởi

những ràng buộc quan niệm xưa cũ và những biến động bên ngoài

thời cuộc. Hai là đi vào phản ánh đời sống, thân phận của người vũ

nữ, gái bar với những nỗi niềm trắc ẩn.

Nhà văn dẫn dắt mạch trần thuật khởi đi từ những gì diễn ra

trong bối cảnh chung, rồi dịch chuyển dần vào khung ngữ cảnh trong

thế giới tâm trạng của từng cá nhân vật. Bằng sự trải nghiệm đời

sống, tác giả đã đi sâu phản ánh với những nấc thang giá trị đang dần

mất đi trong cuộc sống đời thường. Cùng với đấy là các tình huống

mâu thuẫn đầy nhức nhối tưởng như chỉ diễn ra ngoài xã hội thì nay

đã len lỏi, diện kiến trong không gian bé mọn của tổ ấm gia đình

(Nhang tàn thắp khuya, Khung rêu, Chiều xuống êm đềm, Như thiên

đường lạnh, Cho trận gió kinh thiên,....).

Sử dụng hình thức kết cấu chùm truyện trong tổ chức tác

phẩm, nhà văn đã tạo ra nhiều đường dẫn cho quá trình tái hiện bức

tranh về đời sống cá nhân, gia đình và xã hội.

1.3.2. Kết cấu tương phản, diễn giải “ cái phi lí” trong

đời sống

Kết cấu tương phản được hiểu là hình thức tổ chức, dựng

truyện đặt trong nhiều giao tuyến đối lập. Theo đó, lối kết cấu này

thường sắp đặt các sự kiện, hình ảnh, tình tiết, nhân vật, tình

huống…trong sự tương phản, nhằm soi rọi cho nhau hoặc bổ sung,

đối chiếu trong nhau.

Nhà văn viết về biến cố cuộc đời của nhân vật trong chiều đối

ngược nhau, một bên là thực tại tối tăm trái ngược với quá khứ hưng

mãn; sự bế tắc khắc khổ của cái tuổi ngây thơ trong sáng, về nhân

vật “tôi” với những biến cố xảy ra trong gia đình (Trôi sông, Lao vào

lửa, Đêm nổi lửa, Chiếc giường, Lòng trần, Cây độc không trái,

10

Tiếng hát, Đêm tối bao la, Một buổi chiều, Đợi chuyến đi xa, Nắng

chiều vàng, Mãnh, Mèo đêm,… ).

Nguyễn Thị Thụy Vũ luôn quan tâm tới việc xây dựng những

chân dung đối lập với hoàn cảnh, với số phận và định mệnh. Trong

mỗi tác phẩm, sự đối lập này thường gắn với sự vận động, phát triển

của nhân vật. Cùng với chân dung nhân vật, sự tương phản trong lối

sống, phẩm cách còn cho ta thấy kết cấu truyện phát triển trong nhiều

mối mâu thuẫn khác nhau đã thể hiện một vấn đề nội dung tư tưởng

sâu sắc. Do đó, sử dụng lối kết cấu tương phản, nhà văn cho thấy một

nhãn quan đầy ưu tư về cuộc đời.

1.3.3. Kết cấu tâm lí, tạo chiều sâu tinh thần hữu thể

Khảo sát những truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ, chúng tôi

thấy nhà văn rất chú trọng trong gia cố cho mạch trần thuật đi sâu

vào mọi ngóc ngách tâm hồn của nhân vật để phản ảnh đời sống nội

cảm phức tạp. Thế giới nhân vật được xuất hiện luôn gắn với những

chuỗi suy tư, trăn trở; được khởi đi từ cảm nhận của tác giả khi nhập

vai vào trong nhân vật, để đau nỗi đau của một kẻ lạc giới; truyện

xoay quanh xung đột nội tâm trong nàng dâu Thục Nghi. Một người

phụ nữ đầy đủ phẩm cách công dung ngôn hạnh (Khung rêu, Như

thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Thú

hoang, Cho trận gió kinh thiên, Ngọn pháo bông,...).

Từ góc nhìn kết cấu tâm lí, truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ

đã thành công trong diễn tả các trạng thái tâm lý diễn ra vô cùng

phức tạp trong tinh thần hữu thể. Thế giới người hiện lên qua trang

viết của nhà văn được pha trộn trong nhiều nỗi niềm ẩn ức, phức cảm

đan xen chồng lấp. Mạch truyện vắt qua nhiều gấp khúc suy tư về

hiện thực đời sống. Các sự kiện, tình huống như tan chảy vào không

11

gian, bối cảnh tâm trạng. Mỗi nhân vật là một tiếng lòng khỏa lấp

trong nhiều ngã rẽ của cuộc đời.

Tiểu kết

Với sự linh hoạt trong xử lí điểm nhìn và kết cấu, truyện của

Nguyễn Thị Thụy Vũ đem lại những giá trị tư tưởng nghệ thuật nhất

định các hình thức trần thuật. Ở đó, thế giới sống của tác phẩm được

diện hình qua nhiều góc nhìn, trường nhìn đã sinh thành giá trị ý

nghĩa cho mạch truyện kể.

CHƯƠNG 2

KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT

TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN THỊ THỤY VŨ

2.1. Không gian trần thuật

Không gian trần thuật trong tác phẩm văn học được tái tạo

thành những chiều không gian thẩm mĩ và thể hiện một quan niệm

nhất định nào đó về cuộc sống. Bởi vậy “sự miêu tả trần thuật trong

nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong

một trường nhìn nhất định. Qua khảo sát các sáng tác của Nguyễn

Thị Thụy Vũ, chúng tôi nhận thấy có ba khu vực không gian trần

thuật chính được xây dựng, bao trùm lên đời sống trong văn bản. Đó

là các lớp không gian sinh hoạt làng quê Nam Bộ, không gian đô thị

Sài Gòn và không gian tâm linh, ma quái.

2.1.1. Không gian sinh hoạt làng quê Nam Bộ

Nhà văn Thụy Vũ sinh ra và lớn lên trên mãnh đất Vĩnh Long,

xứ sở của vùng sông nước miền Tây Nam Bộ. Bản tính của con

người nơi đây phồn hậu, phóng khoáng vô cùng. Đây cũng là miền

đất của những dấu tích xưa cũ hun đúc cho tác giả những kí ức chân

thực về đời sống.

12

Qua những truyện như Khung rêu, Nhang tàn thắp khuya, Thú

hoang, Chiều xuống êm đềm, Như thiên đường,… Có thể thấy nhà

văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đã vận dụng thành công kĩ thuật phối cảnh

để tạo nên những lớp không gian sinh hoạt mang nhiều sắc màu khác

nhau. Ở đấy, trên mỗi trục không gian, tác giả cho người đọc như

được chứng kiến, chạm vào những mẩu, mảnh đời sống vùng quê

Nam Bộ. Đó là những nét đẹp văn hóa cổ xưa với ngôi nhà ba gian

hai chái chạm khắc tinh tế, là cánh đồng lúa mênh mông bát ngát,

nhà thủy tạ trên bến sông lấp lánh ánh trăng, thanh tịnh. Là những

nét đẹp trong lối sống sinh hoạt của một gia đình, tín ngưỡng thờ

cúng người đã khuất, cái hay của ca vọng cổ.

2.1.2. Không gian đô thị Sài Gòn

Năm 1961 Nguyễn Thị Thụy Vũ rời xa Vĩnh Long lên Sài Gòn

lập nghiệp. Nữ nhà văn học thêm tiếng Anh và đi dạy cho các cô gái

bán Snack Bar. Đó là dịp để tác giả có thêm nguồn tư liệu lớn, tạo

nguồn cảm hứng mới cho sự nghiệp văn chương, Những mảnh đời

của gái ăn sương hiện lên trong trang viết của bà vừa bi kịch và cũng

rất bất hạnh. Với không gian đô thị tráng lệ của những vũ trường,

quán bar nhưng chất chứa bên trong là nỗi ngột ngạt cô đơn, mặc

cảm tội lỗi trong tâm hồn gái bar. Không gian này này xuất hiện đậm

đặc trong các tập truyện như: Lao vào lửa, Mèo đêm, Chiều mênh

mông, Ngọn pháo bông.

Với việc tạo dựng không gian Sài Thành qua các câu chuyện

đã cho chúng ta thấy được nhịp sống ngột ngạt của những cô gái bán

bar hay những người vợ góa chồng. Tất cả họ phải sống trong trạng

thái cô đơn, tủi hờn về thân phận. Bằng nghệ thuật kiến thiết không

gian, Thụy Vũ đã một phần nào phác họa được sự tù đọng lay lắt

trong đời sống của gái ăn sương đầy khổ đau bi kịch. Không những

13

vậy, nữ văn sĩ còn tạo nên những thước phim chân thật về cuộc đời

của giới ăn sương, nơi tâm hồn họ đang thổn thức với khát vọng đổi

thay cuộc sống. Nghịch cảnh đẩy đưa, nhào nặn họ ra những nhân

dạng bế tắc trước dòng đời nghiệt ngã. Họ cố chường mặt ra để sống

nhưng ai trong số ấy cũng bất hạnh. Giới nữ ấy luôn trong trạng thái

tâm hồn đã chết chưa thể nào hồi sinh.

2.1.3. Không gian tâm linh, ma quái

Trong truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ, bên cạnh các mẩu,

mảnh không gian hiện thực còn xuất hiện những mặt cắt không gian

mang sắc màu huyền bí của cõi thiêng. Nơi ấy, tâm thức để con

người ngưỡng vọng thoát tục, thanh lọc tâm hồn. Với sắc màu không

gian này, tác giả đưa chúng ta về với tín ngưỡng thờ thần, thờ gia

tiên của con người Nam Bộ. Đó là nét đẹp văn hóa phong tục, tôn

giáo thiêng liêng của người Việt. Con người khi khổ đau hay hạnh

phúc đều tìm đến đấng thần linh siêu nhiên, để hy vọng hay trú ngụ.

Dường như nhân vật trong truyện của nhà văn luôn tìm đến cõi hư

không, huyền nhiệm của tôn giáo bởi họ tin rằng, nơi đó sẽ cứu cánh

khi họ cần giúp đỡ. Nhưng bản chất cuộc đời này luôn có quy luật

nhân quả. Trong tác phẩm văn học nghệ thuật, người nghệ sĩ tái hiện

thế giới tâm linh ấy còn hướng tới kiếm tìm giá trị văn hóa, giải mã

tâm thức của con người. Bản chất của đời sống tín ngưỡng là hướng

thiện, cảm hóa, gột tẩy ham muốn của con người. Không gian tâm

linh trong sáng tác của Thụy Vũ được dàn trải khắp các truyện :

Khung rêu, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên, Như thiên

đường lạnh.

Việc Nguyễn Thị Thụy Vũ xây dựng nên kiểu không gian tâm

linh, ma quái có sự xáo trộn giữa thực và phi thực đã giúp người đọc

được diện kiến trong chiều sâu thế giới thực tại. Đấy cũng là cách,

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!