Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết cuộc đời ngoài cửa của nguyễn danh lam
PREMIUM
Số trang
140
Kích thước
7.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1367

Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết cuộc đời ngoài cửa của nguyễn danh lam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

THÁI THỊ THANH LIÊM

NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT

TRONG TIỂU THUYẾT CUỘC ĐỜI NGOÀI CỬA

CỦA NGUYỄN DANH LAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

VĂN HỌC VIỆT NAM

Đà Nẵng - Năm 2017

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐHĐN

Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI BÍCH HẠNH

Phản biện 1: TS. Nguyễn Thanh Trường

Phản biện 2: TS. Nguyễn Khắc Sính

Luận văn đã bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt

nghiệp thạc sĩ Văn học Việt Nam, họp tại Trường Đại học Sư

phạm – ĐH Đà Nẵng vào ngày 29 tháng 10 năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin – Học liệu, Đại học Đà Nẵng.

- Thư viện Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Thế hệ nhà văn sau 1975 nói chung và các cây bút viết tiểu

thuyết nói riêng đã không ngừng sáng tạo để định hình nên phong

cách văn chương thời kỳ đổi mới. Trong hành trình khó nhọc đó, có

lúc tưởng chừng như nền văn học nước nhà đã có thể bị gián đoạn,

trở nên mờ nhạt, nhưng chính nhờ niềm đam mê sáng tác và ý thức

nỗ lực cách tân của các nhà văn đã góp mặt vào khuynh hướng đổi

mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Góp phần tạo nên sự đa

dạng và không ngừng biến động của tiểu thuyết đương đại không thể

không kể đến một số tên tuổi dự phần đáng kể vào tiến trình đổi mới

thể loại như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Chu Lai, Bảo Ninh,

Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương,

Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Danh Lam,,,,

Trần thuật là một trong những phương diện cơ bản đối với

hoạt động sáng tạo văn học. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật

còn mở ra nhiều bình diện khác nhau như nghệ thuật xây dựng

nhân vật, nghệ thuật tạo dựng kết cấu, lời văn nghệ thuật, giọng

điệu, kĩ thuật xây dựng không gian, thời gian nghệ thuật…Tìm

hiểu nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi tự sự nói chung, trong

tiểu thuyết nói riêng một mặt giúp khai thác góc độ thi pháp thể

loại, mặt khác đứng từ góc nhìn nghiên cứu này giúp chúng ta

có cơ sở định giá tác phẩm, khẳng định tài năng và những đóng

góp mang dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn Việt Nam vào

2

tiến trình văn chương vẫn còn nhiều đòi hỏi, thách thức từ phía

người tiếp nhận, thời đại tiếp nhận.

Nguyễn Danh Lam, một cây bút trẻ vốn xuất thân là sinh viên

tốt nghiệp trường Đại học Mĩ thuật. Nhưng có lẽ, văn chương mới là

sự lựa chọn mang đến cho nhà văn này nhiều thành công nhất. Cuộc

đời ngoài cửa là tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Danh Lam. Một

cuốn sách mỏng nhưng có sức chứa tương đối đầy đặn, đủ để lại

những ám ảnh và trăn trở trong lòng độc giả về đời sống xã hội, gia

đình, tình yêu, tình bạn, thân phận con người, tương lai đất

nước…Cuộc đời ngoài cửa trên bề mặt có vẻ như đơn giản bởi

những câu chuyện đời thường, nhưng ngầm ẩn trong tác phẩm là

những bi kịch lớn của con người đương đại. Tác phẩm thể hiện một

Nguyễn Danh Lam thâm trầm, sắc sảo, suy tư, với một nội lực sáng

tác đang thời sung sức. Cùng với dòng chảy của văn học thế giới,

Nguyễn Danh Lam đã đi đúng vào quỹ đạo tư duy của tiểu thuyết

thời kỳ hội nhập và đổi mới. Với lối viết khá “chắc tay”, nhà văn đã

thúc đẩy và khai thác những tìm tòi, thể nghiệm trong văn học, đặc

biệt là trên phương diện trần thuật. Lựa chọn đề tài “Nghệ thuật trần

thuật trong tiểu thuyết Cuộc đời ngoài cửa của Nguyễn Danh Lam”,

chúng tôi muốn kiến giải thêm một số phương diện của kĩ thuật trần

thuật đã tạo nên dấu ấn phong cách tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Nguyễn Danh Lam là một nhà văn trẻ, song bằng tài năng và

niềm say mê sáng tác, anh đã cho ra đời nhiều tác phẩm, đặc biệt là

thể loại tiểu thuyết đã được đánh giá cao từ giới chuyên môn và độc

giả. Trong những năm gần đây, tác phẩm của anh trở thành đề tài thu

3

hút khá nhiều người nghiên cứu, tập trung một số nội dung chủ yếu

như: đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam, cảm thức hiện sinh trong

tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam…Tiểu thuyết “Cuộc đời ngoài cửa” là

một tác phẩm mới của tác giả, qua khảo sát chúng tôi thấy chưa có

những công trình nghiên cứu chuyên sâu về tác phẩm này. Riêng về

nghệ thuật trần thuật trong Cuộc đời ngoài cửa, có một số ý kiến liên

quan được bàn đến trong một vài bài báo như: Bài viết “Vì sao

Nguyễn Danh Lam đạt giải C tiểu thuyết với Cuộc đời ngoài cửa”

của tác giả Lê Minh Phong; bài viết “Về sự cách tân của tiểu thuyết”

của tác giả Võ Văn; bài viết “Khởi từ cuộc sống”, tác giả Lê Viễn

Phương; bài viết “Nhà văn Nguyễn Danh Lam và tiểu thuyết Cuộc

đời ngoài cửa: nhặt nhạnh những mảnh đời bình dị” của tác giả Việt

Quỳnh; bài viết “Cuộc đời ngoài cửa, cuốn tiểu thuyết đáng đọc và

suy ngẫm”…

Qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sẽ khai thác được

nghệ thuật kể chuyện ở nhiều khía cạnh từ điểm nhìn, giọng điệu,

cách sử dụng ngôn ngữ, kĩ thuật xây dựng không – thời gian, các thủ

pháp trần thuật…, qua đó góp thêm một cách đánh giá, nhìn nhận về

nghệ thuật viết tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Danh Lam trong

dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tiểu thuyết Cuộc đời ngoài cửa

của nhà văn Nguyễn Danh Lam (NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2016).

3.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu nghệ thuật trần

thuật trong tiểu thuyết Cuộc đời ngoài cửa từ những phương diện

4

điểm nhìn trần thuật, kĩ thuật xây dựng không – thời gian trần thuật,

thủ pháp trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài này được thực hiện bởi một số phương pháp chủ yếu:

phương pháp loại hình; phương pháp khảo sát, thống kê; phương

pháp so sánh – đối chiếu; phương pháp phân tích – tổng hợp; phương

pháp vận dụng lý thuyết thi pháp học và tự sự học.

Ngoài ra, để tăng hiệu quả nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng

một số phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác.

5. Cấu trúc luận văn

Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn được triển khai thành 3 chương:

Chương 1: Nguyễn Danh Lam với xu hướng cách tân trong

nghệ thuật trần thuật tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI

Chương 2: Cuộc đời ngoài cửa của Nguyễn Danh Lam nhìn từ

điểm nhìn trần thuật và kĩ thuật xây dựng không-thời gian trần thuật

Chương 3: Cuộc đời ngoài cửa của Nguyễn Danh Lam nhìn từ

thủ pháp trần thuật và ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật

5

CHƢƠNG 1

NGUYỄN DANH LAM VỚI XU HƢỚNG

CÁCH TÂN TRONG NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XXI

1.1. TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI NHÌN TỪ

NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT

Trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự. Tiểu

thuyết thuộc loại hình tự sự nên nghệ thuật trần thuật là một trong

những yếu tố quan trọng trong phương thức biểu hiện, nó còn là yếu

tố cơ bản thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Nghệ thuật trần thuật

luôn vận động để làm mới mình theo thời gian. Trần thuật đổi mới ở

nhiều phương diện, trong công trình này chúng tôi đề cập đến một số

phương diện cơ bản như: điểm nhìn trần thuật, thủ pháp trần thuật,

ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật và không - thời gian trần

thuật.

1.1.1. Sự đa dạng hóa luân phiên điểm nhìn trần thuật

Trước năm 1975, văn học mang tính đại chúng, hầu hết nội

dung tác phẩm văn học hướng đến cái nhìn nhất quán nhằm ca ngợi,

cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân trong cuộc đấu tranh bảo vệ

độc lập tự do của tổ quốc. Sau năm 1975, đặc biệt từ năm 1986 đánh

dấu bằng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong đó có lĩnh vực

văn học nghệ thuật, văn học chuyển sang có cái nhìn đa chiều với

một tư duy rộng mở, đón nhận nhiều cái nhìn trái chiều, đối lập tạo

nên một nền văn học mới – nền văn học dân chủ, sáng tạo hòa nhịp

cùng với nền dân chủ của dân tộc và thế giới. Nếu trước đây, vai trò

của nhà văn thường là độc tôn, là “toàn tri”, “biết tuốt”, thì tiểu

thuyết đầu thế kỷ XXI, với tinh thần gia tăng tính đối thoại, đã thực

6

hiện sự thay đổi tương quan hết sức quan trọng: vai trò của nhân vật

ngang hàng, bình đẳng với vai trò của người kể chuyện. Tác phẩm

không chỉ có điểm nhìn của nhà văn, của người kể chuyện mà còn sử

dụng điểm nhìn của các nhân vật sắm nhiều ngôi kể trong tác phẩm.

Khi sử dụng điểm nhìn của nhân vật, tác giả đã trao cho nhân vật cái

quyền phát ngôn và những phát ngôn ấy thường hàm chứa cái nhìn

của chủ thể trần thuật. Qua đó, ta thấy mối tương quan giữa điểm

nhìn của tác giả và điểm nhìn của nhân vật. Hai điểm nhìn này có khi

song song, có khi hòa nhập tùy thuộc vào chủ ý của người sáng tác.

Đặc biệt, trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, điểm nhìn của người

kể chuyện không phân định một cách rạch ròi giữa điểm nhìn bên

ngoài, điểm nhìn bên trong, điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật mà

các điểm nhìn này được di chuyển một cách linh động/ luân phiên, có

sự đan xen, dịch chuyển liên tục, phá vỡ tính đơn âm và cùng lúc

chồng xếp lên nhiều tiếng nói khác nhau tạo nên tính phức điệu trong

phương thức trần thuật của tiểu thuyết.

1.1.2. Ngôn ngữ đa thanh, phức điệu

Trước đây, ngôn ngữ trần thuật bị chi phối bởi tư duy thời cuộc

quy định chung cho sự sáng tạo văn học, đó là sự phản ánh văn học

được thể hiện chung một tiếng nói, một chất giọng. Đó là tiếng nói

của tập thể, tiếng nói của nhân dân, tiếng nói của tổ quốc…hợp thành

một tiếng nói chung bảo vệ lợi ích của dân tộc. Bước vào đổi mới,

với tư duy đối thoại - tranh biện, nhà văn nhìn nhận cuộc sống với

nhiều chiều kích khác nhau, lắng nghe nhiều tiếng nói khác nhau, có

thể là tiếng nói của tác giả, tiếng nói của người kể chuyện, tiếng nói

của nhân vật, tiếng nói của bạn đọc…tất cả hòa lên trên cùng một văn

bản tạo cho ngôn ngữ tiểu thuyết có tính đa thanh, phức điệu đầy hấp

dẫn. Vì thế, ngôn ngữ trần thuật không còn là tiếng nói quyền uy, độc

7

tôn mà trở nên bình dị, gần với ngôn ngữ bình dân, sát với đời sống

hiện thực. Nhiều từ ngữ sử dụng trong giao tiếp hằng ngày được đưa

vào văn bản tiểu thuyết, tạo thành “phong cách ngôn ngữ” đa dạng

như “phong cách ngôn ngữ” của giới trẻ, của tầng lớp lao động bình

dân, “phong cách ngôn ngữ” chát… Lúc này ngôn ngữ của người trần

thuật và ngôn ngữ của nhân vật có khi tách bạch, có khi lại hòa nhịp

phụ thuộc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả. Ngoài ra, với quan niệm

xem ngôn ngữ như một “trò chơi”, nên lớp ngôn từ tiểu thuyết được

các nhà văn sử dụng từ sự phức hợp nhiều loại hình ngôn ngữ ở các

lĩnh vực như chính trị, văn hóa, tôn giáo, khoa học…

1.1.3. Trùng phức nhiều giọng điệu trần thuật

Không còn thuần nhất một giọng ngợi ca, thành kính của văn

học cách mạng nhằm cổ vũ tinh thần đấu tranh của toàn dân tộc, sau

đổi mới, theo sự chuyển mình của đời sống xã hội, trong thế giới

“hậu hiện đại” ngổn ngang, chồng chất nhiều mặt đối lập, bản hợp

âm pha tạp của đời sống đã xâm nhập vào tiểu thuyết tạo nên tính đa

thanh, nhiều bè, nhiều giọng điệu. Giọng điệu trở thành một yếu tố

quan trọng trong việc nhận biết tư tưởng, thái độ của nhà văn, cũng là

một tiêu chuẩn nhận diện dấu ấn cá nhân tạo thành phong cách tác

giả. Nhiều giọng điệu riêng hòa trộn tạo nên bản giao hưởng nhiều

cung bậc về cuộc sống: giọng trữ tình sâu lắng; giọng suồng sã,

giọng chua chat; giọng suy ngẫm, triết lý; giọng hài hước, châm

biếm; giọng trào phúng diễu nhại; giọng dung tục đời thường;

giọng vô âm sắc…

1.1.4. Không – thời gian trần thuật đan xen, lắp ghép

Trước 1975, tiểu thuyết thường dụng công cho những không

gian rộng lớn mang tính sử thi, rộng lớn. Sau đổi mới, các nhà văn

hướng ngòi bút của mình vào các đề tài đời tư, thế sự với rất nhiều

8

mối quan tâm, nhiều quan niệm, nhiều góc nhìn. Trong thế giới phức

tạp, đa đoan đó, tiểu thuyết xuất hiện nhiều kiểu không gian như:

không gian đời thường, không gian gia đình, không gian học đường,

không gian phố phường, không gian văn hóa, không gian lịch sử,

không gian siêu thực, không gian tâm tưởng…Về thời gian trần thuật,

nếu trước đây, tiểu thuyết thường được trần thuật theo thời gian trật

tự tuyến tính, mọi thứ thường có trật tự, hệ thống, theo thời gian biên

niên, ngày tháng, thì sau này, tiểu thuyết phổ biến kiểu trần thuật phi

tuyến tính. Lúc này thời gian tuyến tính bị phá vỡ, phân mãnh, xáo

trộn, không theo trật tự nào cả. Không – thời gian trần thuật trong

tiểu thuyết thời kì đổi mới không còn giữ nguyên trật tự như truyền

thống, mà được đan xen, lắp ghép, đảo lộn khiến mọi ranh giới không

gian, thời gian bị xóa nhòa: giữa cụ thể và tượng trưng, giữa ý thức

và tâm linh, giữa hiện thực và huyền ảo.

1.2. NGUYỄN DANH LAM VỚI NỖ LỰC ĐỔI MỚI TIỂU

THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XXI

1.2.1. Nguyễn Danh Lam – một nhà văn trẻ say viết, đam

mê sáng tạo

Nguyễn Danh Lam sinh năm 1972, tốt nghiệp Đại học Mĩ thuật

thành phố Hồ Chí Minh năm 2001. Tác phẩm đầu tay của anh là một

tập thơ mang tên “Tìm”, được sáng tác năm 1998 khi anh còn là sinh

viên trong trường mĩ thuật. “Tìm”, như một sự thể nghiệm tài năng,

một cuộc tìm kiếm đam mê, một sự lựa chọn con đường nghệ thuật.

Và cho đến hôm nay, con đường nghệ thuật anh đang bước đi đã trả

lời cho những kiếm tìm năm nào. Đó là sự lựa chọn là một nhà văn

chứ không phải một nhà thơ, là những tác phẩm tiểu thuyết chứ

không phải hội họa. Sau tập thơ Tìm, anh đã ra mắt liên tiếp các tác

phẩm văn xuôi lôi cuốn người đọc: tiểu thuyết Bến vô thường, tiểu

9

thuyết Giữa vòng vây trần gian, tập truyện ngắn Mưa tháng mười

một, tiểu thuyết Giữa dòng chảy lạc, tiểu thuyết Cuộc đời ngoài

cửa…

Với niềm đam mê, Nguyễn Danh Lam từng tâm niệm rằng

trong quá khứ, anh đã sống nhiều vùng miền, sống nhiều cảnh đời,

nhưng anh vẫn muốn tiếp tục được được đi, được sống, và chắc chắn

là để được viết nhiều hơn.

1.2.2. Nguyễn Danh Lam và tƣ duy nghệ thuật tiểu thuyết

Đặc điểm nổi bật trong tư duy tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam

là chịu ảnh hưởng khá sâu đậm của văn học hiện sinh và cảm quan

hậu hiện đại. Tiểu thuyết của anh ẩn chứa những dự cảm mang tính

hoài nghi, bế tắc nhưng cũng không hoàn toàn vô vọng trước cuộc

sống. Theo dòng chảy cách tân tiểu thuyết, tác phẩm của Nguyễn

Danh Lam cũng không nằm ngoài quy luật: với tư duy đối thoại, nhà

văn cũng đã lựa chọn cho mình nhiều vị trí khác để “nhìn”, luân

phiên, dịch chuyển điểm nhìn mang đến cho người đọc những cái

nhìn khác nhau về cuộc đời. Nguyễn Danh Lam là một cây bút trẻ

được đánh giá là có lối viết khá sung sức và làm chủ được lối viết, có

sở trường trong việc sử dụng ngôn ngữ miêu tả nhân vật, miêu tả

cảnh thiên nhiên, miêu tả đời sống. Về ngôn ngữ nhân vật, tác giả sử

dụng ngôn ngữ đối thoại mang tính khẩu ngữ, dung tục và độc thoại

nội tâm, sử dụng kĩ thuật dòng ý thức để cho nhân vật tự bộc lộ tâm

tư, tình cảm theo “lời nói trong đầu” của mình. Về giọng điệu, tiểu

thuyết Nguyễn Danh Lam chủ yếu mang các giọng như: giọng triết lí,

chiêm nghiệm; giọng hoài nghi, cật vấn; giọng vô âm sắc từ lối kể

chuyện khách quan và trung tính với các điểm nhìn đa dạng.

10

1.2.3. Cuộc đời ngoài cửa – tiếp nối mạch tƣ duy “lạc thể”

của tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam

Nhìn lại bốn tiểu thuyết đã xuất bản của Nguyễn Danh Lam,

người đọc dễ dàng nhận thấy một tư duy xuyên suốt từ đầu đến cuối

cả bốn tác phẩm. Đó là tư duy “lạc thể”. Tư duy này là một trong

những biểu hiện nổi bật của dòng văn học hiện sinh và hậu hiện đại.

Dấu hiệu nhận biết những lạc thể: vô danh, không tên, không tuổi,

không lai lịch…Từ khi xuất hiện, họ vốn đã là những cá thể nhàn

nhạt, trôi nổi giữa cuộc đời. Để rồi, ai trong số họ cũng đều tuyệt

vọng, chán chường nhận ra bản thân mình chỉ là những thân phận con

người luôn mang bên mình nỗi cô đơn truyền kiếp. Họ “dấn thân”,

“nhập cuộc” và rồi họ đều “chạy trốn” khỏi thực tại. Nhưng rồi, càng

“chạy trốn” càng bế tắc, tuyệt vọng. Đến tiểu thuyết Cuộc đời ngoài

cửa, cái kết cho cuộc “chạy trốn” được đánh dấu bằng cái chết của

nhân vật chính là câu trả lời cho sự tuyệt vọng, bế tắc, bất lực đến

hoàn toàn không cách nào cứu rỗi. Đó là cái chết của sự cùng đường,

chết như một sự “không thể khác” và như định mệnh.

11

CHƢƠNG 2

CUỘC ĐỜI NGOÀI CỬA

NHÌN TỪ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT VÀ

KĨ THUẬT XÂY DỰNG KHÔNG -THỜI GIAN TRẦN THUẬT

2.1. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT

2.1.1. Điểm nhìn bên ngoài – cái nhìn “lạnh”, toàn tri

Cuộc đời ngoài cửa có chủ thể trần thuật ngôi thứ ba với điểm

nhìn bên ngoài là lối kể chuyện khách quan. Dưới góc độ là người kể

chuyện, đứng bên ngoài câu chuyện, ghi lại diễn biến của sự việc và

tường thuật lại câu chuyện y nguyên như nó vốn có. Với điểm nhìn

bên ngoài, người kể chuyện luôn giữ một khoảng cách nhất định với

nhân vật, để người kể chuyện thể hiện điểm nhìn của mình một cách

riêng biệt, khách quan. Qua lời người kể chuyện, người đọc sẽ nhận

diện được nhân vật ở vẻ bề ngoài như hoàn cảnh xuất thân, diện mạo,

đôi nét tính cách, thói quen, nghề nghiệp…; điểm nhìn bên ngoài còn

thể hiện ở những đoạn miêu tả thuần túy cảnh thiên nhiên, thời tiết,

cây cỏ…như làm nền cho diễn biến tâm lí nhân vật. Phần cuối tác

phẩm, điểm nhìn của tác giả đã được thể hiện phần nào qua điểm

nhìn của người đàn ông. Người đàn ông đứng ngoài câu chuyện,

nghe kể lại và đã đưa ra những nhận định, đánh giá của mình một

cách khách quan, hơn nữa lại nhìn nhận một cách “toàn tri”, lạnh

lùng, “biết tuốt” mọi chuyện như chuyện như chuyện của chính bản

thân mình.

2.1.2. Điểm nhìn bên trong – những soi chiếu dư chấn tinh thần

Trong Cuộc đời ngoài cửa, điểm nhìn bên trong chính là điểm

12

nhìn của nhân vật ông – nhân vật chính của câu chuyện. Bằng thủ

pháp dòng ý thức, tác giả đã trao cho nhân vật chính giữ vai trò người

kể chuyện, người dẫn dắt câu chuyện cuộc đời mình bằng những hồi

ức, những chiêm nghiệm, suy tư. Kể câu chuyện cuộc đời mình, nhân

vật ông tự nhìn nhận, tự đánh giá, tự ý thức về những chuyện đã xảy

ra. Rõ ràng là ông đã tự nhận thức được những biến cố xảy ra trong

cuộc đời mình, nhận thức được sự đổ vỡ, nhận thức được bản chất

của cuộc sống. Nhưng có điều, ông không lí giải được, và cũng tự

nhận là mình không đủ khả năng để lí giải hay hóa giải những bi kịch

đó. Chính vì mang một tâm thức bất định, trải qua nhiều biến cố nát

tan, nên trong chuyến hành trình cùng con gái, nhìn nơi đâu ông cũng

đều mang một góc nhìn khá ảm đạm, u buồn, nhìn ai ông cũng thấy

họ đáng thương, cô độc.

2.1.3. Điểm nhìn trần thuật luân phiên phi quy tắc

Trong Cuộc đời ngoài cửa, có rất nhiều cuộc đối thoại đã diễn

ra. Có bao nhiêu cuộc gặp gỡ là có bấy nhiêu cuộc đối thoại. Chủ yếu

là những cuộc đối thoại giữa ông và các nhân vật khác. Trong đó,

ông có khi lại có cách nhìn hoàn toàn đối lập với nhân vật này, có khi

lại có cái nhìn đồng cảm với nhân vật khác. Nếu nhân vật ông theo

đuổi một cuộc sống thiên về tình cảm với những giá trị tinh thần thì

người vợ và cô con gái lại phù hợp với lối sống thực dụng, mưu cầu

vật chất. Nếu ông có lối ứng xử quá nhẹ nhàng, lịch thiệp, thương

người thì ông bạn nhà thơ lại quá thô thiển, trần tục, coi thường

người khác…Thế nhưng, dù mỗi người một cách sống, một cách nhìn

khác nhau có lúc ở những thái cực hoàn toàn đối lập, nhưng khi tất cả

hòa trộn thành một lại tạo cho người đọc một cảm giác chung về một

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!