Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THANH VÂN
KHÍA CẠNH NẠN NHÂN TRONG NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU
KIỆN CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THANH VÂN
KHÍA CẠNH NẠN NHÂN TRONG NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU
KIỆN CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự - Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: Pgs.Ts. Phạm Quang Phúc
TP. HỒ CHÍ MINH – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả Luận văn
Nguyễn Thị Thanh Vân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC LÝ LUẬN VỀ KHÍA CẠNH NẠN NHÂN
TRONG CÁC NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM TRỘM
CẮP TÀI SẢN
1.1. Nhận thức về tội phạm trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự
năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) ................................................. 6
1.2. Nhận thức về khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân, điều
kiện của tội phạm trộm cắp tài sản .............................................................. 10
1.2.1. Khái niệm nạn nhân (người bị hại) của tội phạm ....................... 12
1.2.2. Khía cạnh nạn nhân (người bị hại) trong nguyên nhân, điều kiện
của tội phạm trộm cắp tài sản .......................................................................... 21
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ ĐẶC
ĐIỂM CỦA NẠN NHÂN (NGƯỜI BỊ HẠI) TRONG CÁC VỤ ÁN
TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN
2.1. Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Phú Yên……. .............................................................................. 32
2.1.1. Đặc điểm địa lý dân cư, kinh tế - xã hội có liên quan đến tình
hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên .............................. 32
2.1.2. Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Phú Yên ....................................................................................... 33
2.2. Đặc điểm của nạn nhân (người bị hại) trong các vụ án trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên .......................................................... 36
2.2.1. Hành vi của nạn nhân .................................................................. 36
2.2.2. Các đặc điểm nhân thân của nạn nhân ....................................... 38
2.2.3. Mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội .......................... 51
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN LOẠI TRỪ NGUYÊN NHÂN,
ĐIỀU KIỆN TỪ PHÍA NẠN NHÂN CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN
3.1. Dự báo tình hình tội phạm và khía cạnh nạn nhân của tội
phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên trong thời gian
tới…………………………………………………………………………... 60
3.1.1. Cơ sở dự báo ................................................................................ 60
3.1.2. Nội dung dự báo .......................................................................... 61
3.2. Giải pháp góp phần loại trừ nguyên nhân, điều kiện từ phía
nạn nhân của tội phạm trộm cắp tài sản ...................................................... 65
3.2.1. Nâng cao ý thức cảnh giác, tăng cường sự chủ động bảo vệ tài
sản thông qua việc tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng……. ....................................................................................................... 65
3.2.2. Khuyến cáo, nhắc nhở người dân, cơ quan, tổ chức lắp đặt các
thiết bị chống trộm hiện đại ............................................................................. 68
3.2.3. Nâng cao tinh thần tố giác tội phạm trộm cắp tài sản của nạn
nhân và những người liên quan khác ............................................................... 69
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước kể từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội… tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Cùng với tình hình đổi mới và đi lên
chung của đất nước, diện mạo của tỉnh Phú Yên đang ngày càng “thay da đổi
thịt” và có những chuyển biến mạnh mẽ về nhiều lĩnh vực, đời sống nhân dân
không ngừng được cải thiện và nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, an ninh
chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội có tiến bộ đáng khích lệ. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại một thực trạng
không thể phủ nhận trong mặt trái của nền kinh tế thị trường, đó là sự phân
hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc; sự tha hoá trong lối sống, đạo đức; sự xuất
hiện các tệ nạn xã hội cũng như các hành vi phạm tội, đặc biệt là tội phạm
trộm cắp tài sản diễn ra khá phức tạp. Hậu quả của tội phạm này không chỉ là
sự thiệt hại về tài sản mà nó còn gây ra tâm lý hoang mang cho mọi người,
cản trở sự phát triển của xã hội, nhất là trong lĩnh vực đầu tư và du lịch. Tại
tỉnh Phú Yên trong 5 năm từ năm 2007 đến năm 2011, đã xét xử 622 vụ phạm
tội trộm cắp tài sản với 1.093 bị cáo.1
Qua nghiên cứu các vụ án cho thấy,
khía cạnh nạn nhân có vai trò nhất định trong nguyên nhân, điều kiện của tình
hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh.
Tội phạm là kết quả của sự tương tác hỗ trợ giữa nhiều yếu tố khác
nhau. Mỗi yếu tố có một vị trí, vai trò và ý nghĩa nhất định đối với quá trình
hình thành tội phạm. Khía cạnh nạn nhân của tội phạm, một trong những bộ
phận hợp thành nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cụ thể có vai trò quan
trọng trong cơ chế hành vi phạm tội. Dưới góc độ tội phạm học, khía cạnh nạn
nhân được hiểu là các yếu tố thuộc về nạn nhân của tội phạm. Chính nạn nhân
đã góp phần tạo ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm. Do vậy,
1
Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên (2007-2011), Tổng hợp báo cáo kết quả xét xử hình sự sơ
thẩm các vụ án trộm cắp tài sản hàng năm từ năm 2007-2011.
2
nghiên cứu đầy đủ về khía cạnh nạn nhân của tội phạm sẽ góp phần nâng cao
nhận thức về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm. Vì lý do này, tác giả nhận
thấy việc phòng ngừa tội phạm sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu chúng ta chú ý kết
hợp được các biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung với các biện pháp
phòng ngừa tội phạm từ phía những chủ thể có nguy cơ trở thành nạn nhân
của tội phạm.
Xuất phát từ những nhận thức trên, tác giả chọn đề tài “Khía cạnh nạn
nhân trong nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Phú Yên” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội phạm học hiện đại, nạn nhân học là một lĩnh vực nghiên cứu khá
mới mẻ. Nó chỉ mới bắt đầu được nghiên cứu từ những năm 40 của thế kỷ XX
ở các nước phương Tây, sau đó nạn nhân học cũng đã thu hút dần sự quan
tâm của các nhà tội phạm học như Đức, Nhật Bản và các quốc gia phát triển
khác. Tại Việt Nam, vấn đề nghiên cứu nạn nhân của tội phạm chỉ mới được
quan tâm trong những năm gần đây, cụ thể:
- Năm 2000, Luận văn Thạc sĩ Luật học “Nạn nhân học trong tội phạm
học Việt nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Hữu
Tráng, tác giả chỉ đi sâu phân tích các mức độ ảnh hưởng của từng loại nạn
nhân trong các khâu của cơ chế hành vi phạm tội, mà vẫn chưa chỉ ra cụ thể
khía cạnh nạn nhân cũng như nội dung cụ thể của từng khía cạnh nạn nhân
trong nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cụ thể.
- Năm 2001, bài viết “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”
của GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm cũng đề cập một phần đến nạn nhân nhưng
chủ yếu là giới thiệu về nạn nhân dưới góc độ nghiên cứu lịch sử và sự hình
thành, những thành tựu nghiên cứu của nạn nhân tại Nhật Bản.
- Năm 2002, Luận văn Thạc sĩ Luật học “Khía cạnh nạn nhân của tội
phạm và vấn đề phòng ngừa tội phạm” của tác giả Lê Nguyên Thanh và
“Nạn nhân của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần
Thanh Phong đã tiếp tục đánh dấu bước phát triển của việc nghiên cứu vấn đề
nạn nhân của tội phạm ở nước ta.
3
- Năm 2011, Luận văn Thạc sĩ Luật học “Khía cạnh nạn nhân trong
nguyên nhân và điều kiện của tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Khánh
Hòa” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lệ, tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác
nhau về khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của một tội danh
cụ thể “Cướp giật tài sản” và các đặc điểm riêng biệt của nó tại một địa
phương nhất định “Tỉnh Khánh Hòa”.
Bên cạnh đó, còn có các bài báo trong các tạp chí chuyên ngành, các
công trình nghiên cứu của sinh viên luật về khía cạnh nạn nhân như: Năm
2004, Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Luật “Nạn nhân trong nguyên nhân và
điều kiện của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
con người” của tác giả Nguyễn Trần Như Khuê và “Khía cạnh nạn nhân của
các tội xâm phạm sở hữu và vấn đề phòng ngừa tội phạm” của tác giả
Nguyễn Thị Minh Nguyệt. Năm 2005, Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Luật
“Vấn đề nghiên cứu nạn nhân của tội phạm trong tội phạm học Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Thái Hiền. Tuy nhiên, các công trình này chỉ đi sâu phân
tích các đặc điểm nhân thân, hành vi của nạn nhân trong cơ chế hành vi phạm
tội của tội phạm hay một nhóm tội cụ thể. Do đó, có thể khẳng định việc
nghiên cứu khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân, điều kiện của tội phạm
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên là hoàn toàn mới, chưa trùng lắp
bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã công bố.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu khía cạnh nạn nhân trong
các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên, từ đó đưa ra những giải
pháp góp phần loại trừ nguyên nhân, điều kiện từ phía nạn nhân của tội phạm
trộm cắp tài sản trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ của
Luận văn là làm rõ dấu hiệu pháp lý của tội phạm trộm cắp tài sản trong Bộ
luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009); khái niệm nạn nhân
(người bị hại) của tội phạm; khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân, điều kiện
của tội phạm trộm cắp tài sản. Trên cơ sở lý luận này, Luận văn phân tích các
đặc điểm về nạn nhân của tội phạm trộm cắp tài sản trong thực tiễn và đưa ra
4
những giải pháp góp phần loại trừ nguyên nhân, điều kiện từ phía nạn nhân
của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu: Nạn nhân trong các nguyên nhân, điều kiện của
các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: Các số liệu khảo sát đánh giá trong thời gian 5 năm
từ năm 2007 đến năm 2011.
- Phạm vi nội dung: Luận văn chỉ nghiên cứu khía cạnh nạn nhân trong
các tội phạm trộm cắp tài sản ở góc độ tội phạm học.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận của Luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Để thực hiện nhiệm vụ đã nêu,
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh, điều tra xã hội học. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp
này sẽ được vận dụng một cách linh hoạt và kết hợp đan xen lẫn nhau.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Nghiên cứu khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân, điều kiện của tội
phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên là một lĩnh vực nghiên cứu
khá mới. Những công trình đã nêu trong phần tình hình nghiên cứu chưa tìm
hiểu khía cạnh nạn nhân của riêng tội phạm trộm cắp tài sản xảy ra trên địa
bàn tỉnh Phú Yên. Có thể nói, đây là công trình đầu tiên trình bày một cách hệ
thống và chuyên sâu về khía cạnh nạn nhân của tội phạm trộm cắp tài sản xảy
ra trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Những nghiên cứu của tác giả qua Luận văn này, phần nào sẽ giúp cho
các cơ quan bảo vệ pháp luật, các chuyên gia nghiên cứu tội phạm ở tỉnh Phú
Yên đánh giá tầm quan trọng của các giải pháp góp phần loại trừ nguyên
nhân, điều kiện từ phía nạn nhân của tội phạm trộm cắp tài sản để hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả cho các chương trình; kế hoạch phòng, chống tội phạm
này tại tỉnh Phú Yên.
5
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Nhận thức lý luận về khía cạnh nạn nhân trong các nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm trộm cắp tài sản.
Chương 2: Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản và đặc điểm của nạn
nhân (người bị hại) trong các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú
Yên.
Chương 3: Giải pháp góp phần loại trừ nguyên nhân, điều kiện từ phía
nạn nhân của tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
6
CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC LÝ LUẬN VỀ KHÍA CẠNH NẠN NHÂN TRONG CÁC
NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Nhận thức về tội phạm trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm
1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Tội trộm cắp tài sản trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu của người khác
về tài sản. Đối tượng tác động của tội phạm trộm cắp tài sản là tài sản đang có
chủ. Theo quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2009) với các dấu hiệu pháp lý sau:
- Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại.2
Cũng giống như các tội được quy định trong
Chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự, tội trộm cắp tài
sản xâm phạm đến quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài
sản) của người khác.
Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản đó là tài sản của người
khác. Tài sản có thể thuộc quyền sở hữu của công dân Việt Nam, của người
nước ngoài, của các tổ chức trong nước và quốc tế tại Việt Nam, của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như của các nước khác tại
Việt Nam đều được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ.
- Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại
bên ngoài của tội phạm.3
Các biểu hiện bên ngoài của tội phạm tạo thành mặt
khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm
2
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, tr. 67.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Tlđd 2, tr. 77.
7
cho xã hội và hậu quả; các điều kiện bên ngoài khác của việc thực hiện hành
vi phạm tội như công cụ, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…
Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản bao gồm các dấu hiệu sau:
+ Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản
Hành vi khách quan đặc trưng của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén
lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc đang do người khác quản
lý. Lén lút thực hiện hành vi tức là che giấu không cho người khác biết việc
làm của mình khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội luôn có ý thức
che giấu hành vi chiếm đoạt không để chủ tài sản hoặc người đang quản lý tài
sản biết. Ý thức che giấu hành vi phạm pháp có thể đối với tất cả mọi người
nhưng cũng có thể chỉ đối với chủ tài sản hoặc người đang quản lý tài sản, ý
thức che giấu này có thể là che giấu toàn bộ hành vi phạm tội hoặc chỉ che
giấu tính chất phi pháp của hành vi phạm tội.
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là những thiệt hại do người
phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cho khách thể của tội phạm. Đối với tội
trộm cắp tài sản, hậu quả nguy hiểm cho xã hội được quy định tại khoản 1
Điều 138 Bộ luật hình sự, theo đó chỉ được coi là phạm tội trộm cắp tài sản
trong những trường hợp: giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ hai triệu đồng trở lên,
hoặc nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới hai triệu đồng thì phải thỏa mãn
một trong những điều kiện là gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Cần lưu ý, tội trộm cắp tài sản chỉ coi
là hoàn thành khi người thực hiện hành vi trộm cắp đã chiếm đoạt được tài
sản. Còn khi họ chưa chiếm đoạt được tài sản, hành vi của họ chưa cấu thành
tội phạm.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy
hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản
8
Mối quan hệ nhân quả trong mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản đó
là hành vi phạm tội được coi là nguyên nhân và thiệt hại gây ra cho người sở
hữu tài sản được coi là hậu quả của tội phạm.
Các dấu hiệu về công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm,
hoàn cảnh phạm tội… không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm. Tuy nhiên, việc xác định những dấu hiệu này có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Bởi vì, những dấu hiệu này góp phần
xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đồng
thời cũng thông qua đó giúp chúng ta xác định được những nguyên nhân và
điều kiện phạm tội để từ đó tìm ra giải pháp hữu hiệu cho công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
- Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội
phạm.
4
Mặt chủ quan là một mặt trong thể thống nhất với mặt khách quan của
tội phạm gồm các dấu hiệu về lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Lỗi của người phạm tội trộm cắp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục
đích vụ lợi và là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Trong tội trộm
cắp tài sản, động cơ và mục đích vụ lợi là dấu hiệu đặc trưng nhưng không
phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, trên thực tế
điều tra làm rõ động cơ, mục đích của hành vi trộm cắp tài sản trong những
trường hợp cụ thể có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong đó có tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
- Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi được luật hình sự quy
định là tội phạm khi có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
5
Chủ thể của tội phạm trộm cắp tài sản là người có đủ năng
lực trách nhiệm hình sự theo luật định. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới
4
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Tlđd 2, tr. 77.
5
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Tlđd 2, tr. 31.