Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

khảo sát việc cung cấp vốn từ vựng trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước Việt Nam đang trong thời kì hội nhập và phát triển. Đặc
biệt sau khi gia nhập WTO, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng được củng cố và nâng cao. Tiếng Việt đã, đang và sẽ là phương tiện
đắc dụng để bạn bè thế giới tiếp cận với văn minh, văn hoá Việt Nam, là
phương tiện tốt nhất để con em Việt kiều hiểu về đất nước, con người dân
tộc mình, và cũng là phương tiện để người Việt Nam giao lưu, hội nhập với
thế giới trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, du lịch,…Do vậy, việc
dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ đang phát triển khá mạnh mẽ. Để đáp
ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của việc giảng dạy cho nhiều đối tượng khác
nhau, nhiều khoa, nhiều trung tâm giảng dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài đã được mở cùng với sự phát triển của các cơ sở có sẵn từ trước.
Nhiều Hội nghị khoa học về “Tiếng Việt như một ngoại ngữ”, “Tiếng Việt
cho người nước ngoài”,… cũng đã được tổ chức ở trong nước cũng như ở
nước ngoài. Trong báo cáo trình bày ở các hội nghị đó, vấn đề “Tiếng Việt
cho người nước ngoài” cũng đã được nghiên cứu khá sâu sắc và đã đạt
được một số kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt là tại Hội nghị quốc tế về
“Việt Nam học” lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 7/1998 tại Hà Nội có
hẳn một tiểu ban “Tiếng Việt cho người nước ngoài”. Trong báo cáo tổng
kết của hội nghị này, vấn đề “Tiếng Việt cho người nước ngoài” cũng đã
được chú ý và được nêu thành một mục riêng.
Trước những yêu cầu và đòi hỏi của thực tế khách quan, đặc biệt là
chương trình cải tiến nội dung nâng cao chất lượng đào tạo của Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Tiếng
Việt và Văn hóa Việt Nam cho người nước ngoài đang đứng trước nhiều
nhiệm vụ cần phải giải quyết kịp thời và cấp bách. Một trong những nhiệm
vụ to lớn đó là việc hoàn thiện chương trình đào tạo tiếng Việt cho người
1
nước ngoài nhằm đáp ứng những nhu cầu của thực tế đặt ra cho sự nghiệp
đào tạo tiếng Việt trong tình hình hiện nay.
Giống như việc dạy các ngoại ngữ khác, việc dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài phải cung cấp cho người học ngữ liệu và cách sử dụng
ngữ liệu cho người học nhằm đạt hiệu quả tốt nhất trong việc sử dụng tiếng
Việt . Cung cấp ngữ liệu bao gồm ba mặt là: ngữ âm - từ vựng - ngữ pháp.
Trong đó việc cung cấp từ vựng có vai trò quan trọng. Khoá luận này,
chúng tôi đi vào khảo sát việc cung cấp vốn từ vựng trong các giáo trình
dạy tiếng Việt cho người nước ngoài nhằm phục vụ cho việc hiệu chỉnh, bổ
sung và củng cố các giáo trình đã và đang sử dụng ở Khoa Việt Nam học
và tiếng Việt.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khoá luận này, chúng tôi tập trung khảo sát và nghiên cứu vốn
từ vựng được cung cấp trong một số giáo trình dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài đang được sử dụng tại Khoa Việt Nam học tiếng Việt ở cả trình
độ cơ sở và nâng cao. Ở đây, chúng tôi lựa chọn bốn cuốn giáo trình trong
đó có hai cuốn chương trình cơ sở và hai cuốn chương trình nâng cao là:
- “Tiếng Việt cho người nước ngoài” - Chương trình cơ sở, Nguyễn
Văn Phúc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
- “Tiếng Việt cho người nước ngoài” - Trình độ nâng cao, Trịnh Đức
Hiển (Chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
- Tiếng Việt cơ sở, Vũ Văn Thi, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
- Tiếng Việt Nâng cao (cho người nước ngoài - quyển 1), Nguyễn
Thiện Nam, Nxb Giáo dục, 1998.
Qua việc khảo sát, phân tích vốn từ vựng được đưa ra trong bốn cuốn
giáo trình nêu trên, chúng tôi hy vọng tìm ra những đặc điểm của việc đưa
vốn từ vào trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài nhằm
hiệu chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các giáo trình đã và đang được sử dụng ở
2
Khoa Việt Nam học và tiếng Việt, Trường đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, một trong những trung tâm đào tạo
tiếng Việt lớn nhất cả nước.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong tình hình thực tế của việc dạy tiếng Việt ở nước ta hiện nay,
giáo trình là một vấn đề quan trọng vì nó đóng vai trò là cầu nối, có tính
chát công cụ đối với người dạy và người học. Hiện nay, có nhiều giáo trình
dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và có nhiều tác giả tham gia vào công
việc này với những định hướng khác nhau. Chính vì vậy tình trạng rất phổ
biến là giữa các giáo trình danh sách từ vựng khác nhau khá nhiều; trong
đó nổi lên một vấn đề: tính thống nhất và tính chuẩn mực cho các giáo trình
dạy tiếng.
Khoá luận này thực hiện việc khảo sát vốn từ vựng trong bốn giáo
trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài được nêu qua các phần sau:
- Từ mới của bài hội thoại
- Từ vựng của bài đọc
- Bảng từ chung của mỗi giáo trình
Khoá luận này sẽ đánh giá thực trạng từ vựng trong các giáo trình
nêu trên để thấy rõ hơn toàn cảnh từ vựng của chúng nhằm góp thêm thông
tin cho việc tiến tới xây dựng bộ tiêu chí đánh giá lượng từ vựng cho các
giáo trình.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích
Thông qua so sánh việc cung cấp vốn từ vựng ở trình độ cơ sở và
nâng cao, khoá luận chỉ ra những đặc điểm cũng như thực trạng cung cấp
vốn từ vựng hiện nay trong các giáo trình dạy tiếng Việt. Đồng thời, nghiên
cứu đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích cung cấp thông tin để góp phần
hiệu chỉnh và cải tiến chất lượng của việc biên soạn giáo trình dạy tiếng
3
Việt như một ngoại ngữ, đặc biệt ở phần từ vựng, một trong ba phần cơ bản
của việc cung cấp ngữ liệu trong dạy tiếng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khoá luận thực hiện xác định lý luận về từ, các đơn vị cơ sở cho
nghiên cứu, đánh giá.
- Thống kê và phân loại từ vựng được cung cấp trong các giáo trình.
Sau đó, so sánh các vốn từ được cung cấp trong mỗi giáo trình, việc cung
cấp vốn từ trong mỗi giáo trình để thấy được sự khác biệt ở mỗi giáo trình
và giữa các trình độ.
- Dựa trên những kết quả nghiên cứu được, khoá luận nêu lên những
đặc điểm của việc cung cấp vốn từ vựng trong các giáo trình dạy tiếng Việt
hữu quan, đồng thời đưa ra một số ý kiến về việc cung cấp, phát triển vốn
từ của người học.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ TƯ LIỆU
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong khoá luận là một số
thao tác phân tích ngôn ngữ học thường gặp và một số thủ tục nghiên cứu
định lượng khi cần thiết.
4.2 Tư liệu
Chúng tôi thống kê và mô tả việc cung cấp vốn từ vựng trong bốn
cuốn giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài được sử dụng tại Khoa
tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam dành cho người nước ngoài , bao gồm:
- Tiếng Việt cho người nước ngoài ( Vietnam for foreigners) - Chương
trình cơ sở, Nguyễn Văn Phúc, Nxb đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
- Tiếng Việt cho người nước ngoài (Vietnam for foreigners) - Trình độ
nâng cao, Trịnh Đức Hiển (Chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
- Tiếng Việt cơ sở (Vietnamese for beginners), Vũ Văn Thi, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2008.
4
- Tiếng Việt Nâng cao cho người nước ngoài, quyển 1 (Intermediate
Vietnamese for non – native speakers), Nguyễn Thiện Nam, Nxb Giáo dục,
1998.
5. CẤU TRÚC CỦA KHOÁ LUẬN
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, phần Phụ lục và Danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung chính của khoá luận bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận
1.1. Quá trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam
1.2. Nhận thức về vấn đề dạy tiếng và dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
1.3. Lý luận về từ và đơn vị từ vựng
1.4. Quá trình tiếp thu và tích luỹ từ vựng
Chương 2: Việc cung cấp vốn từ trong nguồn tư liệu được khảo
sát xét trên phương diện từ loại
2.1. Dẫn nhập
2.2. Khảo sát
2.3. Nhận xét
2.3.1. Định lượng
2.3.2. Định tính
Chương 3: Việc cung cấp vốn từ trong nguồn tư liệu được khảo
sát trên phương diện chủ điểm
3.1. Dẫn nhập
3.2. Khảo sát
3.3. Nhận xét
Chương 4: So sánh việc cung cấp vốn từ trong các giáo trình
được khảo sát
4.1. Dẫn nhập
4.2. So sánh
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
1.1. Quá trình phát triển của việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
ở Việt Nam
Trải qua nhiều biến thiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã có
những cuộc tiếp xúc lớn với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
Người nước ngoài đến mảnh đất này với nhiều lí do khác nhau và theo đó
việc sử dụng ngôn ngữ bản địa đã trở thành nhu cầu cấp thiết của họ.
Tuy nhiên, cho đến trước cuộc xâm lược của người Pháp ở Việt Nam
(thế kỉ 19), việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài chưa được đặt ra theo
đúng ý nghĩa của việc “dạy ngoại ngữ”. Cho đến lúc đó, ở Việt Nam chưa
thấy xuất hiện tài liệu giáo khoa nào chính thức được biết và sử dụng. Đối
với gia đoạn này, chủ yếu người nước ngoài tiếp xúc với tiếng Việt theo lối
tự phát, truyền khẩu.
Tiếng Việt được dạy cho người nước ngoài như một ngoại ngữ ở
nước ta có lẽ trong lịch sử chỉ diễn ra trong vòng hơn 100 năm nay. Việc
này gắn với nhu cầu của người Pháp khi tiến hành xâm lược thuộc địa và
thi hành chính sách cai trị ở đây. Mục đích của việc học tiếng đối với họ
cũng rất rõ ràng: thông ngôn và cai trị.
Trong suốt thời gian dài từ cuối thế kỉ 19 đến năm 1945 sách dạy
tiếng Việt cho người Pháp căn bản do người Pháp viết. Năm 1889, một tài
liệu giảng dạy tiếng Việt ra đời rất sớm là “Dẫn đàng nói chuyện tiếng
Phalangsa” và tiếng “Annam” do Bon (Cố Bân) và Dronet (Cố Ân) biên
soạn. Quyển sách này được dùng cho các giáo sĩ Châu Âu ở Việt Nam.
Ngoài ra còn vài tài liệu do Trương Vĩnh Ký và Trương Vĩnh Tống biên
soạn. Các sách dạy tiếng Việt trong thời kỳ này đều theo nguyên tắc dựa
6
vào các phạm trù ngữ pháp trong tiếng Pháp để dạy tiếng Việt với nhận
thức đã là ngôn ngữ thì đều giống nhau về mặt hình thức.
Nhu cầu dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ chỉ thực sự được đặt ra
sau năm 1954. Sau hiệp định Giơnevơ, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền
Nam - Bắc. Do những mối quan hệ quốc tế trong thời kỳ chiến tranh, việc
dạy tiếng Việt đã trở nên cấp bác nhất là những nước có quan hệ về mặt
ngoại giao với Việt Nam. Trong thời kỳ này đã xuất hiện những trung tâm
tiếng Việt. Các trường Đại học lớn ở Pháp, Mĩ, Đức, Nga, Cu-ba, Ba Lan,
Tiệp Khắc, Trung Quốc, Ấn Độ đã có khoa hay trung tâm dạy và nghiên
cứu tiếng Việt như: . Đặc biệt là ở Việt Nam, sau khi miền Bắc giải phóng,
Đại học Tổng hợp được thành lập và đã có bộ môn dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài, tiền thân của Khoa tiếng Việt và văn hoá Việt Nam cho
người nước ngoài hiện nay.
Việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài thực sự phát triển từ khi
Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, cả thế giới bước vào thời kỳ đối thoại
và hội nhập trên mọi lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật cùng với
sự “bùng nổ thông tin”…đã làm nhu cầu giao tiếp của con người ngày càng
trở nên cấp thiết, nhằm mở rộng giao lưu trên trường quốc tế. Ý muốn tìm
hiểu về một quốc gia, về một nền văn hoá…đã thúc đẩy việc dạy và học
tếng ngày càng phát triển và mở rộng về quy mô cũng như hình thức
(không chỉ trong nước mà còn cả quốc tế). Trong nước, tiếng Việt được
dạy phổ biến với nhiều mục đích và đối tượng học khác nhau. Ở khu vực
Đông - Nam Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, các trung tâm dạy
tiếng ở các trường Đại học lớn Pháp, Mĩ…với các hình thức đào tạo đa
dạng: ngắn hạn, dài hạn, chuyên sâu…tạo nên không khí sôi động đáp ứng
nhu cầu thiết thực của thời cuộc.
1.2. Vấn đề dạy tiếng và dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, là phương tiện để con người thể hiện
tư tưởng, tình cảm của mình. Trong mọi hoàn cảnh và bối cảnh giao tiếp,
7
mỗi ngôn ngữ của một dân tộc có những cách thức thể hiện khác nhau.
Muốn vận dụng được bất kì một ngôn ngữ nào trong giao tiếp, chúng ta
phải có một sự hiểu biết nhất định về ngôn ngữ đó. Vì vậy, dạy tiếng là dạy
vận hành một cơ chế cấu trúc ngôn ngữ, tương ứng với cấu trúc nhận thức
và gắn liền với con người.
Dạy tiếng có thể xét ở hai bình diện:
- Dạy tiếng cho người nước ngoài
- Dạy tiếng cho người bản ngữ
Ở đây chúng tôi xin đề cập đến lĩnh vực dạy tiếng cho người nước ngoài.
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu. Việc tiếp
nhận một ngôn ngữ mới chính là hình thức giải mã kí hiệu của ngôn ngữ đó
mà đằng sau nó là cả một nền văn hoá. Cho nên, dạy tiếng là dạy một nền
văn hoá (vì ngôn ngữ là công cụ của văn hoá ghi lại tri thức văn hoá của
dân tộc). Dạy tiếng là dạy chính thứ tiếng đó với tính chất ngôn ngữ tự
nhiên chứ không phải dạy về tiếng trên phương diện nghiên cứu.
Trong các phương pháp dạy và học ngoại ngữ, chúng ta phải nói đến
hai loại phương pháp cơ bản là những phương pháp truyền thống và những
phương pháp hiện đại .
- Phương pháp dạy và học ngoại ngữ trước đây, được xem là những
phương pháp truyền thống: Phương pháp này tồn tại hàng thế kỉ với định
hướng truyền đạt là chính chứ ít rèn luyện kĩ năng. Phương pháp truyền
thống rất coi trọng đến hình thức nên mỗi bài giảng đều bắt đầu bằng việc
dạy ngữ pháp. Ngữ pháp đó được thực hiện hoặc giới thiệu trực tiếp qua
các từ loại và bài khoá. Các vấn đề phát âm đựoc tách thành những bài
riêng biệt trong đó tập trung rèn luyện về các nguyên âm, phụ âm, trọng âm
nhưng rất coi nhẹ ngữ điệu, đồng thời không coi trọng hành vi ngôn ngữ.
- Phương pháp dạy và học ngoại ngữ hiện nay, được xem là những
phương pháp hiện đại: Là phương pháp được sử dụng phổ biến trong
8
những năm gần đây. Thay vì học tiếng theo lối mô tả, giới thiệu là chính thì
bây giờ học tiếng lấy thực tế sinh động của ngôn ngữ làm đối tượng.
Trái với những phương pháp truyền thống, những phương pháp hiện
đại đi từ lời nói, nó được thể hiện qua các cá nhân. Lời nói của các nhân
được thể hiện qua các hành động ngôn ngữ và các hành vi ngôn ngữ.
Tiếng Việt ngày càng có địa vị xứng đáng trên trường quốc tế, số
người nước ngoài học và nghiên cứu tiếng Việt ngày càng đông. Việc
nghiên cứu phương pháp dạy tiếng Việt cho người nước ngoài là cần thiết.
Việc dạy tiếng Việt ở mỗi thời kỳ lịch sử đều có sự khác nhau. Trước
kia, việc dạy này được áp dụng theo phương pháp truyền thống. Nhưng
trong những năm trở lại đây, khoa học kĩ thuật phát triển, người học có
điều kiện tiếp xúc với những thành tựu mới mẻ đó trong việc dạy và học
tiếng. Đặc biệt là trong việc dùng các phương tiện cho việc học như radio,
kênh hình,… làm cho việc học đạt kết quả cao hơn, người học có thể tiếp
xúc với ngôn ngữ mới ở nhiều góc độ sinh động của cuộc sống với thực
tiễn phong phú. Từ thực tế trên, một loạt giáo trình dạy tiếng đã ra đời để
phục vụ cho việc học. Các giáo trình này chuyển từ phương pháp truyền
thống sang phương pháp dạy tiếng hiện đại, nhằm đáp ứng nhu cầu cho
người học tiếng. Việc cung cấp ngữ liệu trong đó có từ vựng là một vấn đề
cần được quan tâm trước hết nhằm xây dựng cơ sở và tạo hiệu quả cho việc
học tiếng Việt đối với người nước ngoài.
Theo chương trình đào tạo của Khoa Tiếng Việt và Văn hoá Việt
Nam cho người nước ngoài thì sự cung cấp vốn từ được phân bố như sau:
- Bậc cơ sở (Elememtary):
+ Về số lượng: từ 600 – 800 đơn vị từ.
+ Về kiểu loại:
* Từ đơn và một số từ ghép đơn giản
* Chủ yếu lượng từ về sinh hoạt, thông dụng
- Bậc nâng cao (Intermediate):
9
+ Về số lượng: 1600 – 2500 đơn vị từ
+ Về kiểu loại:
* Hoàn thiện các kĩ năng sử dụng vốn từ thông dụng
* Cung cấp một số vốn từ thuộc các lĩnh vực: xã hội,
báo chí, kinh tế, khoa học, giáo dục,…
- Bậc hoàn thiện (Advance):
+ Về số lượng: 2500 – 4500 đơn vị từ
+ Về kiểu loại:
* Hoàn thiện vốn từ báo chí, hoạt động xã hội, khoa
học, giáo dục,…
* Cung cấp vốn từ chuyên ngành: văn học, ngôn ngữ,
chính trị,..
Việc phân bố lượng từ vựng ở mỗi bậc học về số lượng và kiểu loại
như vậy là nhằm phù hợp với yêu cầu và khả năng của người học trong
việc tiếp nhận một ngoại ngữ. Việc cung cấp vốn từ vựng trong các giáo
trình dạy tiếng theo xu hướng tăng dần về số lượng và chất lượng. Mỗi bậc
học khác nhau thì vốn từ được cung cấp cũng khác nhau, nhưng đều phải
nằm trong cùng một hệ thống nhằm đảm bảo sự thống nhất. Số lượng từ
được cung cấp phải hợp lí: ở trình độ cơ sở thì số lượng từ được cung cấp ít
hơn ở trình độ nâng cao và hoàn thiện vì đây là lúc người học bắt đầu tiếp
xúc với một ngoại ngữ mới nhưng các từ phải đáp ứng được yêu cầu giao
tiếp cơ bản và thông dụng . Ở trình độ nâng cao và hoàn thiện thì vốn từ có
số lượng lớn hơn, các từ được cung cấp phải đáp ứng được yêu cầu về sử
dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và chuyên ngành học. Quá
trình học tiếng Việt cũng giống như bất kỳ một ngoại ngữ nào, cần phải
theo một trình tự tăng dần và có sự tích luỹ về mặt từ vựng và phù hợp với
từng trình độ. Do đó, sự phân bố dung lượng về nội dung từ vựng cho mỗi
trình độ dạy tiếng Việt cho người nước ngoài tại khoa tiếng Việt được nêu
10