Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

KGB - HỒ SƠ BÍ MẬT phần 3 pps
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
KGB - HỒ SƠ BÍ MẬT
http://www.ebook4u.vn Page 41
lý nguyên tử ở Viện vật lý nguyên tử IPT của Kharkov. Từ IPT của Kharkov, nơi phân
hạch nguyên tử liti đã được thực hiện vào năm 1932, là điểm mấu chốt trong nghiên cứu vật
lý của Xôviết. Leipunski giữ vai trò hàng đầu ở đây, tuy nhiên ông đã có những nghi ngờ về
triển vọng của một phản ứng dây chuyền và ông nghĩ rằng, cần phải hoàn thành một khối
lượng công việc lớn trước khi đạt được điều đó. Một mặt ông là người khám phá, mặt khác
ông lại là người bảo thủ, cũng như ông Ioffe, người sáng lập IPT của Kharkov.
Trong cuộc hội thảo năm 1939 về vấn đề vật lý nguyên tử được tổ chức ở Kharkov,
Youli Khariton và Yakov Zeldovitch, được sự bảo vệ của ông Nikolai Semionov ở Viện
hóa học và vật lý Leningrad, đã mở ra hai hướng chỉ đạo mới về phản ứng dây chuyền, với
việc sử dụng một là Uranium 238, hai là chất tiết chế của nước nặng, hoặc đồng vị của
Uranium 235. Giả thiết cuối cùng này được hai nhà vật lý khác của IPT Kharkov là ông
Viktor Maslov và Vladimir Chpinel tán thành, và vào tháng 10 năm 1941 họ đã có được
tấm bằng sáng chế của Văn phòng ứng dụng quân sự về nghiên cứu khoa học. Nó được đặt
tên là “Từ việc sử dụng Uranium như một chất nổ và độc hại”, nó nằm trong khoảng thời
gian có giác thư ngoại giao của Peierla-Frichs (tháng 3 năm 1940) và bản báo cáo của
Maaud (tháng 7 năm 1941), tất cả hai bản báo cáo này đều xa lạ ở Nga. Nhưng Maslov và
Chpinel đã gặp nhau trong những nơi có phản ứng chính thức không thuận lợi cho người
đồng nhiệm của họ ở Anh. Những tháng sau đó, họ đã gõ tất cả những cánh cửa, trong đó
có cả cánh cửa của Hồng quân nhưng không thành công vì không được sự ủng hộ. Chiến
tranh nổ ra ngay lúc bấy giờ. Maslov được gọi đi chiến đấu và đã chết trong chiến trường,
trong khi đó Chpinel được lệnh gấp rút quân trở về Alma-Ata ở Kazakhstan, với IPT của
Kharkov. Ở đó ông thực hiện những công việc liên quan trực tiếp đến sức mạnh của chiến
tranh. Một người tên là Fritz Lange nào đó, là bạn hay đồng nghiệp của người này hay
người khác, mang quốc tịch Đức, bị bắt đi đày ngay lập tức ở “tủ ngầm”. Đến nỗi mà sáng
kiến ra đi của Kharkov chỉ đạo một chương trình của Xôviết về bom A đã bị rơi vào một
ngõ cụt.
Leipunski đã rút lui đến Oufa, thuộc phía Đông Nam của Kazan và đã nhận được cuốn
sổ tay của một sĩ quan Đức từ Matxcơva gửi về, trả lời không chậm trễ rằng, ông ta không
thấy gì ở đó và không biết những nhà vật lý Xôviết. Tất nhiên, bọn Đức quốc xã đã làm
việc về những ứng dụng của năng lượng nguyên tử trong quân đội, tuy nhiên vấn đề này
vẫn chưa được giải quyết trước mười lăm hay hai mươi năm. Bởi những hậu quả này, ông
đã nhận định không đúng lúc về Liên bang Xôviết trong việc hoang phí tài nguyên thiên
nhiên trong chương trình này, có thể nó sẽ kéo dài trong chiến tranh.
Thật khó để nói về sự cẩn thận của Leipunski về những lý do không thể nói ra của ông
về vấn đề khoa học hay những người tiền nhiệm của ông. Ông là một trong những nhà bác
học đã bị bắt vào những năm ba mươi và bị kết án một cách tưởng tượng như, đi sai lệch
con đường chống chủ nghĩa Macxit hay những hoạt động chống Cách mạng. Bảy hoặc tám
vị trưởng phòng ở Viện Nghiên cứu của Kharkov đã bị bỏ tù cùng tội danh với người sáng
lập và ông giám đốc của họ. Những nguy hại này được chỉ đạo không phải để chống lại
những nhà vật lý, họ nằm trong khuôn khổ của một vụ thanh trừ với quy mô toàn quốc gia,
mà đỉnh điểm của nó là vào năm 1937.
Leipunski đã có may mắn trong chuyện này: sau một năm ở tù, ông đã được trả tự do,
Hiệp ước Molotov - Ribbentrop đã có tác dụng, tất nhiên, sau tất cả mọi chuyện thì Đức
quốc xã và Xôviết đã trở thành người bạn tốt của nhau. Người đàn ông cẩn thận này có kinh
nghiệm gì trong chuyện này. Về vấn đề chính trị không được thương lượng trong khi đó
chúng ta lại đánh giá cao đồng thời cả những nhược điểm và những thành tích cao siêu của
nhà vật lý này dưới chế độ Stalin.
Kaftanov có ý thức về những khó khăn này, vấn đề là Leipunski hay người khác, nhưng
ông ta không chạy theo những thông báo của Leipunski. Bởi vì có một nhà vật lý khác, trẻ
và táo bạo luôn đẩy ông vào sự mạo hiểm.
KGB - HỒ SƠ BÍ MẬT
http://www.ebook4u.vn Page 42
MỘT NHÀ VẬT LÝ TRẺ TÁO BẠO
Ở Anh, Mỹ hay ở Nga, những nhà bác học có tên tuổi đều có lý do và sợ rằng, Đức quốc
xã là nước đầu tiên chế tạo ra loại bom “có chứa uranium”. Đặc biệt, từ khi Đức là nước
đầu tiên thành công trong việc phân hạch nguyên tử uranium.
Sự kiện này đã xảy ra vào tháng 12 năm 1938 ở Viện Nghiên cứu Hoá học Kaiser -
Wilhelm, nằm ở ngoại ô Thủ đô Berlin. Nhóm nghiên cứu đầu tiên này có ông Otto Hahn
và Fritz Strassmann. Thí nghiệm của họ đã được Irène và Frédéric Joliot - Curie xác minh
ngay tháng sau đó, tức là vào năm 1939 ở Paris. Thí nghiệm này cho biết rằng, hạt nhân
uranium đã bắn ra những nơtron chậm và tách thành hai phần. Hai cựu đồng nghiệp của
Hahn và Strassmann là ông Lise Meitner và Otto Frisch đang lưu vong ở Scandinave giải
thích rằng, chỗ vỡ mà những người Pháp gọi là “sự phân hạch” thông qua phương pháp loại
suy với phân tử, có thể giải phóng một năng lượng không thể tin được. Từ nay trở đi, nó có
thể được tính trung bình theo công thức nổi tiếng của nhà vật lý Albert Einstein là E=mc2
(năng lượng là một khối lượng tăng theo bình phương vận tốc ánh sáng). Thậm chí một đơn
vị uranium có thể sinh ra rất nhiều năng lượng, khoảng một triệu đơn vị cácbon. Một vụ nổ
của nó có thể so sánh với hàng nghìn tấn thuốc nổ TNT.
Mặt khác, thí nghiệm của ông Hahn và Strassmann đã chỉ ra rằng, những phần tách ra
của hạt nhân nặng hơn khối lượng của nó. Có thể chính nó phát ra những nơtron, từ đó có
khả năng sinh ra một phản ứng dây chuyền. Đó chính là ý kiến của nhà vật lý người
Hunggari Leo Szilard - người đã xem xét khả năng này từ năm 1933. Szilard đã được thông
tin về thí nghiệm của Hahn - Strassmann thông qua ông Niels Bohr, và Otto Frisch đã báo
cho biết. Trong một vài ngày, sự kiện “phản ứng dây chuyền” đã gây xôn xao dư luận trong
cộng đồng các nhà vật lý nguyên tử thế giới. “Cơn sốt về Uranium” đã lan ra rất nhanh.
Một số cuộc họp của các nhà vật lý đã diễn ra vào cuối tháng giêng năm 1939 ở
Washington do George Gamow - một nhà vật lý đã trốn khỏi Liên bang Xôviết từ ba mươi
năm trước đây tổ chức. Họ đã được tiếp đón và bảo lãnh bởi những con người tuyệt giỏi
như: Niels Bohr, Enrico Fermi, Edward Teller, Hans Beth và Otto Stern. Cuộc họp này đã
cho thế giới biết về sự đăng quang của một kỷ nguyên hạt nhân nguyên tử; đồng thời hứa
hẹn với thế giới một nguồn năng lượng dư thừa và sự phá huỷ của nó không thể tưởng
tượng nổi.
Các nhà vật lý Xôviết đã được thông tin về những sự kiện này từ ông Frédéric Joliot -
Curie trong cuộc trao đổi của ông ta với Ioffe và thông qua những quảng cáo của tờ New
York Times và tờ Physical Review. Leipunski, Khariton và Zeldovich đã cùng nhau lao vào
công việc mà chúng ta đã nêu trên. Ông Igor Kourtchatov, một trong những nhân vật sáng
giá nhất được Ioffe bảo vệ, đã làm việc trong phòng thí nghiệm của ông ta ở IPT của
Leningrad. Họ phục vụ cho dự án trên để kiểm tra và phát triển hơn nữa những phát minh
của người Đức.
Một trong những học trò của ông là Gueorgui Fliorov và Lev Roussiov, đã xác định một
cách có kinh nghiệm rằng, hạt nhân uranium tách ra có thể giải phóng từ hai đến bốn
nơtron. Nó làm tăng cơ may sự phân hạch nguyên tử. Trong khuôn khổ của một thí nghiệm
khác, ông Fliorov, một thành viên làm việc cùng với nhóm của Constantin Petrjak, đã cải
tiến đến nỗi căn phòng inốc hoá đó có thể cho họ khả năng quan sát sự phân hạch tự động
từ uranium. Có nghĩa là sự tách những hạt nhân từ uranium nặng không bắn ra nơtron. Với
một sự ngây thơ đến ngạc nhiên, Kourtchatov đã làm lại thí nghiệm này ở tàu điện của
Matxcơva để xác định tác dụng của nó, nếu có những tia vũ trụ. Sau khi đã nhận được sự
đồng ý cần thiết của Hội đồng thị chính, ông đã chuyển những vật liệu cồng kềnh trong
những khu phố của Thành phố Matxcơva và sau đó là khắc phục được sự ngập ngừng của
những người lái tàu điện. Những nhà vật lý không chính thống này phần nào đã đạt được