Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
PREMIUM
Số trang
167
Kích thước
1.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1089

Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DANH TÚ

GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH

TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG

NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2013

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DANH TÚ

GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH

TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG

NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Hành chính

Mã số : 62.38.20.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Chu Hồng Thanh

TS. Lê Hồng Sơn

HÀ NỘI - 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án này là công trình

nghiên cứu của mình và không trùng lặp với bất

cứ công trình nào của các tác giả khác; các số

liệu được sử dụng trong Luận án có nguồn gốc

rõ ràng.

Tác giả

Nguyễn Danh Tú

MỤC LỤC

Nội dung Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chƣơng 1 - TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

9

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc 9

1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc 20

1.3. Nhận định về tình hình nghiên cứu 24

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 26

Chƣơng 2 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN

HÀNH CHÍNH TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP

QUYỀN Ở VIỆT NAM

27

2.1. Những vấn đề lý luận về giải quyết khiếu kiện hành chính ở

Việt Nam

27

2.1.1. Khái niệm về khiếu kiện hành chính và giải quyết khiếu

kiện hành chính

27

2.1.2. Đặc điểm của giải quyết khiếu kiện hành chính 30

2.1.3. Chủ thể giải quyết khiếu kiện hành chính 34

2.1.4. Đối tượng giải quyết khiếu kiện hành chính 35

2.1.5. Thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính 40

2.1.6. Về thủ tục khởi kiện và giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án 46

2.2. Những vấn đề lý luận về Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ

nghĩa liên quan đến giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam

48

2.2.1. Khái quát và các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa liên quan đến giải quyết khiếu kiện hành chính

48

2.2.2. Yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối

với giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam

54

2.2.3. Ý nghĩa của giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

58

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 64

Chƣơng 3 - THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH

TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM

67

3.1. Khái quát về giải quyết khiếu nại, giải quyết khiếu kiện

hành chính ở Việt Nam trƣớc năm 1996

67

3.2. Pháp luật về giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam giai

đoạn 1996 đến nay

69

3.2.1. Pháp luật về giải quyết khiếu kiện hành chính giai đoạn

1996 - 2011

69

3.2.2. Pháp luật về giải quyết khiếu kiện hành chính giai đoạn

2011 đến nay

77

3.3. Hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam

giai đoạn 1996 đến nay

95

3.3.1. Hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính giai đoạn

1996 - 2011

95

3.3.2. Hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính giai đoạn

2011 đến nay

103

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 108

Chƣơng 4 - QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI

QUYẾT KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ

NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM

110

4.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện hành

chính trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam

110

4.1.1. Bảo đảm quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng 110

4.1.2. Bảo đảm yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, cải cách hành chính nhà nước

110

4.1.3. Bảo đảm yêu cầu cải cách tư pháp 111

4.1.4. Bảo đảm tốt hơn quyền khiếu kiện của công dân 111

4.1.5. Bảo đảm kế thừa các quy định của pháp luật, kinh

nghiệm giải quyết khiếu kiện hành chính hiện hành; tham khảo có

chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài; tương thích với các điều ước

quốc tế mà nước ta là thành viên

112

4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu kiện hành

chính trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam

114

4.2.1. Tiếp tục đổi mới nhận thức về giải quyết khiếu kiện hành

chính

114

4.2.2. Đổi mới mô hình tổ chức Tòa hành chính giải quyết khiếu kiện

hành chính

118

4.2.3. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính 127

4.2.4. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật nội dung có liên quan đến

giải quyết khiếu kiện hành chính

136

4.2.5. Tăng cường năng lực xét xửcủa đội ngũ Thẩm phán hành chính 137

4.2.6. Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hành chính 143

TIỂU KẾT CHƢƠNG 4 147

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

CỦA TÁC GIẢ

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

GQKKHC Giải quyết khiếu kiện hành chính

TAND Tòa án nhân dân

TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao

PLTTGQCVAHC Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

LTTHC Luật tố tụng hành chính

QĐHC Quyết định hành chính

HVHC Hành vi hành chính

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài

1.1. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đặt ra các

yêu cầu đối với GQKKHC. Nhà nước pháp quyền khác với nhà nước khác ở mối

quan hệ giữa công quyền và người dân. Trong Nhà nước phong kiến mối quan

hệ giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ một chiều thể hiện ở việc thần dân

chịu trách nhiệm trước Nhà nước mà không có chiều ngược lại: chính Nhà nước

cũng phải chịu trách nhiệm trước người dân. Trong Nhà nước pháp quyền, mối

quan hệ giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ qua lại hai chiều. Nhà nước

hoàn toàn có thể và có nguy cơ bị công dân của mình khởi kiện ra Tòa án nếu

các quyết định của cơ quan thực hiện quyền hành pháp, hành vi công vụ của

công chức xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Bên cạnh đó, nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến một Nhà nước mà

ở đó, quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và

pháp luật đồng thời được bảo đảm thực hiện và bảo vệ trên thực tế bằng các

chế định pháp lý khác nhau. Khi quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền

bị xâm phạm bởi cơ quan hành chính thì một trong những chế định pháp lý bảo

vệ quyền công dân hiệu quả nhất chính là việc giải quyết khiếu kiện bằng con

đường Tòa án. Như vậy, GQKKHC là một chế định pháp lý hướng đến mục

đích cuối cùng là bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước

pháp quyền. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vì vậy việc nghiên cứu những yêu cầu

của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với GQKKHC cũng như nâng

cao vai trò, hiệu quả của GQKKHC tại Tòa án là cần thiết.

1.2. Công cuộc cải cách tư pháp đã đặt ra nhiệm vụ phải nâng cao hiệu

quả GQKKHC, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án. Chúng ta đang xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: Mở rộng thẩm quyền xét

xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục

giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho

người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan

công quyền trước Tòa án; Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của Tòa án có

hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý

theo phán quyết của Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành; Tổ chức hệ thống

Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Văn

kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng khẳng định: “Đổi

mới hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, mở rộng thẩm quyền xét

xử đối với các khiếu kiện hành chính” [11, tr. 53-54]. Như vậy, các Nghị quyết

của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ hết sức quan trọng cho công cuộc cải cách tư pháp

trong đó có hoàn thiện việc GQKKHC tại Tòa án nhằm đáp ứng các yêu cầu

của tiến trình cải cách tư pháp.

1.3. Pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động GQKKHC ở nước ta trong

thời gian qua còn nhiều bất cập. Khi thực hiện chức năng quản lý hành chính,

Nhà nước không thể tránh khỏi vấn đề xung đột lợi ích giữa một bên là cơ quan

nhà nước với một bên là những người trực tiếp bị tác động bởi các QĐHC,

HVHC. Trong các quyết định và hành vi đó, không hiếm những QĐHC,

HVHC trái pháp luật, xâm phạm hoặc tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm đến quyền,

lợi ích hợp pháp của công dân. Khi cho rằng quyền lợi ích hợp pháp của mình

bị xâm phạm từ phía công quyền, người dân luôn có nhu cầu cần đến một cơ

quan độc lập, vô tư và khách quan để phán quyết trên cơ sở pháp luật. Về phía

Nhà nước, trước yêu cầu chính đáng của công dân, luôn đặt ra nhiệm vụ phải

xây dựng hệ thống pháp luật, tạo cơ sở để giải quyết những khiếu kiện đó của

công dân. Tuy nhiên, pháp luật cũng như thực tiễn giải quyết khiếu kiện của

công dân đối với những QĐHC, HVHC của cơ quan, công chức nhà nước ở

3

nước ta vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế.

Thực tiễn công tác quản lý nhà nước ở các cấp, các ngành thời gian qua cho

thấy: cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế - xã hội và sự hội nhập kinh

tế quốc tế ngày càng sâu rộng kéo theo sự phức tạp, khó khăn cho cơ quan hành

chính trong quản lý hành chính nhà nước. Một trong những biểu hiện của tình

trạng này là số lượng các vụ khiếu nại, khiếu kiện hành chính của công dân không

ngừng gia tăng, thậm chí có lúc, có nơi, có lĩnh vực tình trạng khiếu nại, khiếu

kiện đã trở thành điểm nóng. Mặc dù hàng năm, các cơ quan chức năng đã giải

quyết một số lượng lớn các đơn thư khiếu nại, khiếu kiện của công dân nhưng

công tác giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hành chính vẫn còn nhiều yếu kém. Đặc

biệt, pháp luật về việc GQKKHC bằng con đường Tòa án đã có nhưng số lượng

vụ việc khiếu kiện hành chính được giải quyết tại Tòa hành chính không nhiều,

chất lượng giải quyết chưa cao, trong khi đó, các cơ quan giải quyết khiếu nại

hành chính luôn trong tình trạng quá tải. Hiện tượng trên phản ánh một thực tế

công tác GQKKHC của chúng ta cần được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện.

Việc nâng cao chất lượng GQKKHC nhằm bảo vệ quyền con người,

quyền công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa cần dựa trên kết quả của việc nghiên cứu vấn đề này ở cả ba phương

diện: lý luận, pháp luật và thực tiễn. Xuất phát từ các lý do trên đây, nghiên cứu

sinh lựa chọn đề tài Luận án Tiến sỹ: Giải quyết khiếu kiện hành chính trong

điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu Đề tài Luận án của tác giả nhằm đóng góp về mặt lý luận

khi đưa ra khái niệm về GQKKHC tại Tòa án, những yêu cầu của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc GQKKHC, phân tích, đánh giá thực tiễn

GQKKHC trong thời gian qua. Đặt vấn đề nghiên cứu trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, Luận án đề

4

xuất quan điểm, giải pháp để tiếp tục hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu

quả hoạt động GQKKHC nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền công

dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở tiếp thu các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, Luận

án có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

Thứ nhất, nghiên cứu đưa ra khái niệm về GQKKHC tại Tòa án; các yêu

cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với GQKKHC với tư cách

là một phương pháp góp phần tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền công

dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật và thực trạng hoạt

động GQKKHC từ năm 1995, 1996 đến nay. Từ đó rút ra những ưu điểm và hạn

chế của các quy định pháp luật và hoạt động GQKKHC qua các giai đoạn.

Thứ ba, đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng GQKKHC tại

Tòa án, đổi mới mô hình tổ chức Tòa hành chính, tổ chức theo thẩm quyền xét

xử.

3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của Luận án là lĩnh vực GQKKHC tại Tòa án thể hiện

ở phương diện lý luận, pháp luật và thực tiễn hoạt động GQKKHC tại Tòa án ở

Việt Nam từ năm 1995, 1996 đến nay và đặc biệt trong giai đoạn xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp hiện nay. Bên cạnh đó,

Luận án có đề cập đến pháp luật GQKKHC của một số nước trên thế giới để từ

đó rút ra một số kinh nghiệm trên cơ sở phù hợp với điều kiện của nước ta.

Đối tượng nghiên cứu của Luận án là việc GQKKHC tại Tòa án trong

điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp:

những vấn đề lý luận, thực trạng những quy định pháp luật và thực trạng giải

quyết các vụ án hành chính tại Tòa án để từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án.

5

4. Phƣơng pháp nghiên cứu và cách tiếp cận

Trong quá trình nghiên cứu, Luận án sử dụng các phương pháp nghiên

cứu sau đây:

- Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở học thuyết Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ

Chí Minh về Nhà nước, pháp luật nói chung và hoạt động quản lý hành chính

nhà nước nói riêng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân, về cải cách hành chính và cải cách tư pháp (Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020) để tiếp cận vấn đề GQKKHC. Đây là cơ sở lý luận, là

nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu các vấn đề lý luận

cũng như thực tiễn GQKKHC ở nước ta hiện nay và cũng là cơ sở để đề xuất

phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính, nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động GQKKHC, hoàn thiện mô hình và thẩm quyền

GQKKHC của Tòa hành chính.

- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: khi nghiên cứu các

quy định của pháp LTTHC, tác giả đặt quy định đó trong sự vận động phát

triển, trong bối cảnh quy định đó được ban hành để từ đó nghiên cứu, đánh giá.

Ví dụ: khi nghiên cứu về thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính, tác

giả nhận thấy theo PLTTGQCVAHC năm 1996, Tòa án có thẩm quyền giải

quyết 08 loại khiếu kiện hành chính đến Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số

điều của PLTTGQCVAHC năm 1998, Tòa án có thẩm quyền giải quyết 10 loại

khiếu kiện hành chính đến Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của

PLTTGQCVAHC năm 2006, Tòa án có thẩm quyền giải quyết 22 loại khiếu

kiện hành chính và đến LTTHC năm 2010, Tòa án có thẩm quyền giải quyết

đối với hấu hết các loại khiếu kiện hành chính (chỉ trừ một số lĩnh vực). Như

vậy, thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính của Tòa án ngày càng

được mở rộng, ngày càng được hoàn thiện hơn. Xuất phát từ năng lực giải

quyết các vụ án hành chính của Tòa án nên thẩm quyền giải quyết các khiếu

6

kiện hành chính của Tòa án được mở rộng dần qua từng giai đoạn. Nếu mở

rộng ngay từ giai đoạn đầu, trong khi Tòa hành chính mới được thành lập thì sẽ

gây quá tải cho Tòa án, Tòa án sẽ khó đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được ngay.

Chúng ta nghiên cứu cơ chế GQKKHC tại Tòa hành chính cần nhận thấy cơ

chế GQKKHC tại Tòa hành chính đã phát triển từ chưa đến có, từ ít hoàn thiện

đến ngày càng hoàn thiện hơn.

- Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn: khi nghiên cứu Luận án,

tác giả sử dụng lý luận về Nhà nước, pháp luật, dân chủ xã hội chủ nghĩa của

Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu, phân tích các

quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động GQKKHC tại Tòa án. Từ thực

tiễn, nghiên cứu, tổng kết, khái quát hóa để rút ra những đánh giá, kết luận. Kết

hợp giữa lý luận và thực tiễn để nghiên cứu, đánh giá nhằm từ đó đưa ra các

kiến nghị, đề xuất.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận án sử dụng phương pháp phân tích

để phân tích các quy định cụ thể của pháp LTTHC, phân tích số lượng cũng như

chất lượng hoạt động giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án. Từ đó, tổng

hợp, khái quát hóa để rút ra ưu điểm, nhược điểm, những mặt được và những

điểm còn hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật cũng như thực trạng hoạt

động GQKKHC tại Tòa án. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra phương hướng, giải pháp

nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế GQKKHC tại Tòa án.

- Phương pháp so sánh: tác giả nghiên cứu, so sánh quy định của pháp

luật và thực trạng GQKKHC qua các giai đoạn khác nhau (từ năm 1995, 1996

đến năm 2011 và từ năm 2011 đến nay) để từ đó thấy bước phát triển ngày

càng hoàn thiện hơn của các quy định pháp luật cũng như cơ chế GQKKHC tại

Tòa án. Tác giả cũng nghiên cứu, so sánh mô hình tổ chức và thẩm quyền của

cơ quan tài phán hành chính ở một số nước trên thế giới để từ đó rút ra một số

kinh nghiệm trên cơ sở phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

- Về cách tiếp cận của Đề tài:

7

+ Tác giả nghiên cứu các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với

GQKKHC tại Tòa án;

+ Tác giả nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật cũng như hoạt

động GQKKHC tại Tòa án từ năm 1995, 1996 đến nay (trên cơ sở chia làm hai

giai đoạn: giai đoạn từ năm 1995, 1996 đến năm 2011 và từ năm 2011 khi

LTTHC có hiệu lực đến nay);

+ Tác giả đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng GQKKHC

tại Tòa án, đổi mới mô hình tổ chức và thẩm quyền của Tòa hành chính.

5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án

Trên cơ sở hệ thống hóa những kết quả đã đạt được của khoa học pháp lý

nước ta về GQKKHC, Luận án đã đạt được một số điểm mới sau đây:

- Thứ nhất, Luận án làm rõ về mặt lý luận khái niệm, đặc điểm của

GQKKHC, đặc biệt đặt trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, một Nhà nước mà quyền con người, quyền công dân được tôn trọng

và bảo vệ, Nhà nước mà mọi tranh chấp trong đó có tranh chấp hành chính

được giải quyết khách quan, không thiên vị tại Tòa án.

- Thứ hai, tác giả nghiên cứu đưa ra các yêu cầu của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc GQKKHC ở Việt Nam.

- Thứ ba, Luận án khẳng định vấn đề xây dựng nền hành chính trong sạch,

hiệu lực, hiệu quả phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có việc hoạt động quản lý

hành chính của cơ quan hành chính nhà nước và hoạt động công vụ của cán bộ,

công chức phải được kiểm soát bởi một hệ thống cơ quan tư pháp.

- Thứ tư, Luận án tổng kết, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của pháp

luật và hoạt động GQKKHC từ năm 1996 đến năm 2011 và từ năm 2011 đến

nay, trên cơ sở cập nhật những thông tin, số liệu mới nhất.

- Thứ năm, Luận án đưa ra quan điểm và giải pháp để nâng cao chất lượng

GQKKHC tại Tòa án, trong đó có việc đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức và

8

thẩm quyền của Tòa hành chính trong hệ thống TAND.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án

- Ý nghĩa về lý luận: Bằng việc đưa ra những kiến giải tương đối toàn

diện trên phương diện lý luận về khiếu kiện hành chính và GQKKHC đặt trong

bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp,

Luận án đã có những đóng góp nhất định về mặt khoa học, góp phần đặt cơ sở

lý luận cho việc nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu vấn đề GQKKHC trong các

lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, các giải pháp mà Luận án đưa ra có ý nghĩa quan

trọng về mặt lý luận, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hành

chính trong thực tiễn.

- Ý nghĩa về thực tiễn: Bằng việc đưa ra những kiến giải lý luận về khiếu

kiện hành chính và GQKKHC, phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng giải

quyết các vụ án hành chính, Luận án nhận thấy tính cấp thiết phải đổi mới,

nâng cao hiệu quả GQKKHC ở nước ta hiện nay. Đồng thời khẳng định,

GQKKHC bằng con đường Tòa hành chính là phù hợp với yêu cầu của Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp

luật về GQKKHC, nâng cao chất lượng của công tác xét xử các tranh chấp

hành chính tại Tòa án ở nước ta.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án có

kết cấu 4 Chương như sau:

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án

- Chương 2: Những vấn đề lý luận về GQKKHC trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

- Chương 3: Thực trạng GQKKHC trong điều kiện xây dựng Nhà nước

pháp quyền ở Việt Nam

- Chương 4: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả GQKKHC trong

điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!