Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

giải pháp nhằm xâm nhập chuỗi giá trị toàn cầu của ngành nông sản Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu trong thời đại ngày nay khi các rào cản đối
với các dòng chảy về thông tin, ý tưởng, các nhân tố về vốn và lao động có kỹ năng,
công nghệ và hàng hóa đang dần được giỡ bỏ. Điều này làm ranh giới phân cách các
quốc gia dần bị xóa mờ, tạo cơ hội cho các nước tham gia sâu và rộng hơn vào quy
trình sản xuất các sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho lợi ích chung của con người. Mỗi
nước, với ý thức về tiềm năng và năng lực của mình đã chuyên môn hóa, tập trung
vào lĩnh vực hoặc một số khâu trong quy trình sản xuất có lợi thế so sánh như thiết
kế, sản xuất, chế biến, phân phối,… để có thể thu lại lợi ích nhiều nhất từ quá trình
hội nhập. Vì vậy, hàng hóa không chỉ được thực hiện giá trị tại một quốc gia mà có
khi là hai quốc gia, ba quốc gia hoặc nhiều hơn nữa, từ đó tạo thành các chuỗi giá trị
toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-2009 xuất phát từ khủng hoảng tài
chính Mỹ vừa qua đã tác động tới tất cả các mặt của kinh tế toàn cầu cũng như các
khâu của quá trình thực hiện giá trị trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, hàng
nông sản cũng không phải là ngoại lệ, đặc biệt khi việc sản xuất nông sản chủ yếu
được thực hiện tại các quốc gia đang phát triển - những nước yếu thế, dễ bị tổn
thương và thường chịu thiệt thòi hơn khi tham gia thương mại tự do.
Nông sản nước ta mặc dù đã đạt được một số thành công nhất định khi tham gia
thị trường thế giới song vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu vẫn còn thấp.
Khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, ngành hàng này cũng phải chịu không ít ảnh hưởng
tiêu cực; do đó, những yếu kém của việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu nông sản của
Việt Nam mới được bộc lộ rõ ràng hơn bao giờ hết, cho thấy việc thụ động phụ thuộc
vào diễn biến thị trường thay vì chủ động tạo ra chỗ đứng cho mình trong chuỗi của
các doanh nghiệp cũng như người nông dân.
Trước những vấn đề đó, khóa luận tốt nghiệp này có tên : “GIẢI PHÁP
NHẰM XÂM NHẬP CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU CỦA NGÀNH NÔNG
SẢN VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI” với hy vọng
1
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
của tác giả là đưa ra được cái nhìn tổng thể về vị thế của nông sản Việt Nam trong
chuỗi giá trị toàn cầu dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-
2009.
2. Mục đích nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu và hình thành khóa luận nhằm giải quyết các vấn đề sau:
- Khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu và tại sao phải phân tích chuỗi giá trị toàn cầu
ngành nông sản;
- Khái quát về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-2009 và tác động của nó
tới nền kinh tế thế giới nói chung và ngành nông sản nói riêng;
- Chuỗi giá trị nông sản toàn cầu và vị thế của nông sản Việt Nam trong chuỗi
với hai mặt hàng: gạo (đại diện cho cây lương thực) và cà phê (đại diện cho cây công
nghiệp);
- Xu hướng phát triển của thị trường nông sản thế giới sau khủng hoảng kinh tế;
- Định hướng phát triển nông sản Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu;
- Một số giải pháp vĩ mô và giải pháp vi mô nhằm nâng cao năng lực xâm nhập
chuỗi giá trị toàn cầu của nông sản Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là chuỗi giá trị nông sản toàn cầu và vị
thế của nông sản Việt Nam (gạo và cà phê) trong chuỗi, đặc biệt là dưới tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-2009 vừa qua.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, tác giả đã thu thập thông tin, số liệu từ
sách, báo, các nghiên cứu của nhiều tác giả uy tín của Việt Nam trên thế giới cũng
như các tổ chức quốc tế. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng nhiều sơ đồ, hình vẽ, bảng
biểu để làm tăng thêm tính trực quan sinh động và tăng tính thuyết phục cho bài viết.
5. Kết cấu khóa luận:
Khóa luận được chia thành ba phần chính, tương ứng với ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về chuỗi giá trị toàn cầu;
2
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Chương 2: Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và vị thế của hàng
nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu;
Chương 3: Giải pháp nhằm xâm nhập chuỗi giá trị toàn cầu cho hàng nông sản
Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế thế giới.
Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Quản trị kinh
doanh, các phòng ban khác của trường Đại học Ngoại Thương cùng toàn thể các thầy
cô giáo đã truyền đạt kiến thức, tạo điều kiện học tập và môi trường rèn luyện cho em
trong suốt bốn năm qua. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Th.s Nguyễn Thị
Thu Trang – giảng viên đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Bên cạnh đó, em cũng bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, những người thân và
bạn bè đã động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập và
nghiên cứu vừa qua.
Dù đã cố gắng nỗ lực hết mình song với vốn kiến thức còn hạn chế của tác giả
và thời gian nghiên cứu không nhiều, khóa luận này chắc chắn không thể tránh khỏi
sai sót. Vì vậy rất mong các thầy cô cùng các bạn đóng góp ý kiến để em hoàn thiện
nghiên cứu của mình hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2010
Sinh viên thực hiện: Ngô Thị Tú Anh
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỀM VÀ CÁC CÔNG CỤ PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ
TRỊ TOÀN CẦU
1. Khái niệm
Giá trị
3
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Theo quan niệm của C.Mác trong bộ Tư bản, quá trình sản xuất hàng hóa tư bản
chủ nghĩa, về thực chất là quá trình sáng tạo ra giá trị và thực hiện giá trị. Quá trình
sản xuất hàng hóa có thể hiểu được theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp,
sản xuất hàng hóa là quá trình kết hợp các yếu tố sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất
(công cụ lao động và đối tượng lao động) và sức lao động để tạo ra sản phẩm. Theo
nghĩa rộng, sản xuất hàng hóa là quá trình tái sản xuất mở rộng bao gồm bốn khâu:
sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng; trong đó, vị trí, vai trò của các khâu trong
quá trình tái sản xuất đó không như nhau. Sản xuất là khâu quyết định còn các khâu
sau chịu sự chi phối của sản xuất mặc dù chúng có tác động ngược lại như tiêu dùng
hợp lý sẽ tạo điều kiện đế sản xuất có hiệu quả cao hơn. Khâu phân phối và trao đổi
là những khâu trung gian kết nối sản xuất với tiêu dùng. Cách tiếp cận nghiên cứu
của C.Mác là dựa trên phương pháp trừu tượng hóa và có tính khái quát cao, chủ yếu
đề cập đến quá trình sáng tạo giá trị từ trong lưu thông. Có thể nói sản xuất là điều
kiện cần còn thực hiện hàng hóa là điều kiện đủ. C.Mác cũng đã mô phỏng mô hình
tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện cấu tạo kỹ thuật (tỷ lệ vốn/ lao động hay c/v) không thay đổi. Thực chất,
mô hình này là việc xây dựng một quy trình tạo ra được giá trị sử dụng hay công
dụng. Giá trị được tạo ra trong sản xuất chỉ là giá trị cá biệt và khi hàng hóa được tiêu
dùng thì mới hình thành giá trị xã hội tức là giá trị đích thực của hàng hóa.
Cũng theo quan niệm của C.Mác, quá trình sản xuất hàng hóa là quá trình tạo ra
giá trị theo cơ cấu: C + V + M; trong đó, C là tư bản bất biến, V là tư bản khả biến, M
là giá trị thặng dư. Mức độ phân bố giá trị vào các thành phần của chuỗi giá trị này có
sự khác nhau tùy theo đặc điểm của ngành.
Trong mô hình với giả định nền kinh tế không có ngoại thương, C.Mác đã trừu
tượng hóa nền kinh tế tư bản trong giai đoạn toàn cầu hóa hoàn toàn, không còn sự
chia cắt và tách biệt giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, quá
trình tái sản xuất được mở rộng trên phạm vi toàn cầu và giá trị được sản xuất và
thực hiện cũng trên phạm vi toàn cầu. Quá trình tái sản xuất được mở rộng trên phạm
vi toàn cầu làm hình thành nên mạng sản xuất toàn cầu mà trên thực tế, đây là hiện
tượng xảy ra khi có sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia kéo theo sự hình
4
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
thành mạng lưới sản xuất quốc tế là một trong những điều kiện quyết định sự ra đời
của nền kinh tế thế giới hay nói cách khác nền kinh tế thế giới, về thực chất, là tập
hợp của các chuỗi giá trị toàn cầu của các ngành sản xuất hoặc tổ hợp của các chuỗi
sản phẩm và dịch vụ.
Chuỗi giá trị
Có ba luồng nghiên cứu chính về chuỗi giá trị, đó là:
i) Filièle (Chuỗi):
Phương pháp Filièle (filièle có nghĩa là chuỗi, mạch) gồm các trường phái tư
duy và truyền thống nghiên cứu khác nhau. Khởi đầu, phương pháp này được dùng
để phân tích hệ thống nông nghiệp của các nước đang phát triển trong hệ thống thuộc
địa của Pháp. Phân tích chủ yếu là công cụ để nghiên cứu cách thức mà các hoạt
động sản xuất nông nghiệp (đặc biệt là cao su, bông, cà phê và dừa) được tổ chức tại
các nước đang phát triển. Trong bối cảnh này, khung Filièle chú trọng đặc biệt đến
các hệ thống sản xuất địa phương được kết nối với công nghiệp chế biến, thương
mại, xuất khẩu và khâu tiêu dùng cuối cùng.
Khái niệm chuỗi (filièle) bao hàm nhận thức kinh nghiệm thực tế được sử dụng
để lập sơ đồ dòng chuyển động của hàng hóa và xác định những người tham gia vào
các hoạt động. Tuy nhiên, phương pháp này chủ yếu tập trung vào vấn đề của các
mối quan hệ vật chất và kỹ thuật định lượng, được tóm tắt trong sơ đồ dòng chảy của
các hàng hóa và sơ đồ mối quan hệ chuyển đổi. Phân tích Filièle có hai đặc điểm nổi
bật sau:
- Việc đánh giá chuỗi giá trị về mặt kinh tế và tài chính chú trọng vào vấn đề
tạo và phân phối thu nhập trong chuỗi hàng hóa, phân tích các chi phí cũng như thu
nhập giữa các thành phần kinh doanh nội địa và quốc tế để nghiên cứu ảnh hưởng của
chuỗi đến nền kinh tế quốc dân và sự đóng góp của nó vào GDP.
- Phân tích chuỗi lấy sự phát triển của nông nghiệp làm trọng tâm nghiên cứu;
quan tâm tới các vấn đề như sự tương tác lẫn nhau giữa các đối tượng tham gia,
những cản trở và kết quả thu được cho mỗi bên liên quan trong chuỗi, các chiến lược
5
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
cá nhân và tập thể cũng như các hình thái quy định. Chẳng hạn ở châu Phi có bốn loại
quy định liên quan đến chuỗi hàng hóa được phân tích gồm: quy định trong nước,
quy định về thị trường, quy định của nhà nước và quy định kinh doanh nông nghiệp
quốc tế. Năm 1989, hai nhà nghiên cứu là Moustier và Leplaideur (Pháp) đã đưa ra
một khung phân tích về tổ chức chuỗi giá trị hàng hóa, bao gôm lập sơ đồ, các chiến
lược cá nhân và tập thể, và hiệu suất về mặt giá cả và tạo thu nhập, có tính đến vấn đề
chuyên môn hóa của nông dân và thương nhân ngành thực phẩm so với chiến lược đa
dạng hóa.
ii) Khung phân tích của Michael Porter
Luồng nghiên cứu thứ hai liên quan đến công trình của Michael Porter (Havard
Busniess School) trong cuốn sách “Competitive Advantage: Creating and Sustaining
Superior Performance” (1985) về các lợi thế cạnh tranh. M.Porter đã dùng khung
phân tích chuỗi giá trị để đánh giá xem một công ty nên tự định vị mình như thế nào
trên thị trường và trong mối quan hệ với nhà cung cấp, khách hàng và đối thủ cạnh
tranh khác.
Theo M.Porter, chuỗi giá trị là chuỗi các hoạt động; trong đó sản phẩm đi qua
tất cả các hoạt động của chuỗi một cách tuần tự và tại mỗi hoạt động, sản phẩm sẽ
tích lũy thêm một giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm
nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại.
Trong khung phân tích của Porter, khái niệm chuỗi giá trị không trùng với
chuyển đổi vật chất. Porter giới thiệu ý tưởng theo đó tính cạnh tranh của một công ty
không chỉ liên quan đến quy trình sản xuất. Mô hình chuỗi giá trị này là một tập hợp
của nhiều công đoạn hay nhiều khâu khác nhau và có quan hệ với nhau cùng tạo ra
giá trị như thiết kế sản phẩm, logistics đầu vào, logistics đầu ra, sản xuất, marketing
& bán hàng, các dịch vụ hậu mãi cùng với các hoạt động bổ trợ gia tăng giá trị cho
sản phẩm như lập kế hoạch chiến lược, quản lý nguồn nhân lực, hoạt động nghiên
cứu,… Với góc độ nghiên cứu này, chuỗi giá trị chỉ áp dụng trong kinh doanh của
doanh nghiệp; do vậy phân tích chuỗi giá trị chủ yếu nhằm hỗ trợ các quyết định
quản lý và chiến lược điều hành của một doanh nghiệp, một công ty cụ thể.
SẢN XUẤT
Logistics đầu vào
Sản xuất Logistics
đầu ra Đóng gói
6
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
HÌNH 1: KHUNG PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA M.PORTER
Nguồn: Michael Porter, 1985
Một cách khác để tìm ra lợi thế cạnh tranh là dựa vào khái niệm hệ thống giá
trị; thay vì chỉ phân tích lợi thế cạnh tranh của một công ty duy nhất, có thể xem các
hoạt động của công ty như một phần của chuỗi các hoạt động rộng hơn mà Porter gọi
là hệ thống giá trị. Một hệ thống giá trị bao gồm các hoạt động do tất cả các công ty
tham gia trong việc sản xuất một hàng hóa hoặc dịch vụ thực hiện, bắt đầu từ nguyên
liệu thô đến phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng. Vì vậy, khái niệm hệ thống giá
trị rộng hơn so với khái niệm chuỗi giá trị của doanh nghiệp.
iii) Phương pháp tiếp cận toàn cầu
Khái niệm các chuỗi giá trị được Gary Gereffi (Duke University) lần đầu tiên áp
dụng để phân tích toàn cầu hoá, tìm hiểu cách thức mà các công ty và các quốc gia
hội nhập toàn cầu và để đánh giá các yếu tố quyết định đến phân phối thu nhập toàn
cầu. Sau đó, Raphael Kaplinsky [21;4] đưa ra những khái niệm về chuỗi giá trị như
sau:
Theo nghĩa hẹp (giản đơn): Chuỗi giá trị gồm một loạt các hoạt động cần có để
sản xuất ra một sản phẩm hoặc dịch vụ từ giai đoạn xây dựng khái niệm, qua các giai
đoạn khác nhau của sản xuất tới phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng, dịch vụ
hậu mãi và việc vứt bỏ sản phẩm sau khi sử dụng.
HÌNH 2: MÔ HÌNH CHUỖI GIÁ TRỊ ĐƠN GIẢN
Logistics
đầu vào
Sản
xuất
Logistics
đầu ra
Marketing &
bán hàng
Dịch
vụ
Cơ sở hạ tầng
Quản trị nguồn nhân lực
Phát triển công nghệ
Mua sẳm
Các hoạt
động
chính
Các hoạt
động bổ
trợ
GIÁ
TRỊ
SẢN XUẤT
Logistics đầu vào
Sản xuất Logistics
đầu ra Đóng gói
7
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Nguồn: Raphael Kaplinsky and Mike Morris, 2001
Theo nghĩa rộng: Chuỗi giá trị là một phức hợp những hoạt động do nhiều
người tham gia khác nhau thực hiện (người sản xuất sơ cấp, người chế biến, thương
nhân, người cung cấp dịch vụ…) để biến một nguyên liệu thô thành thành phẩm được
bán tới tay người tiêu dùng. Chuỗi giá trị rộng bắt đầu từ hệ thống sản xuất nguyên
liệu thô và chuyển dịch theo các mối liên kết với các doanh nghiệp khác trong các
hoạt động như kinh doanh, chế biến, lắp ráp…
Như vậy, mỗi sản phẩm được tạo ra đều có giá trị bao gồm một xâu chuỗi các
mắt xích nhiều giá trị kết nối tạo nên. Trong thời đại toàn cầu hóa, các mắt xích tạo
nên giá trị cuối cùng của một sản phẩm đã vượt ra ngoài biên giới một quốc gia, lãnh
thổ khi các chi tiết của nó được thiết kế ở một nước, sản xuất ở một nước khác, lắp
ráp ở nước thứ ba, và tiêu thụ ở nước thứ tư… hoặc một sản phẩm thuần túy ra đời
tại một địa phương cụ thể nhưng vẫn mang giá trị toàn cầu. Vì vậy, khái niệm chuỗi
giá trị toàn cầu đã xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến trên khắp thế giới.
Chuỗi giá trị toàn cầu
Mọi sản phẩm mới - từ phần mềm cho tới đồ dùng - đều phải trải qua một chu
kỳ, bắt đầu bằng nghiên cứu cơ bản rồi nghiên cứu ứng dụng, thời kỳ ấp ủ, phát triển,
thử nghiệm, sản xuất, triển khai, hỗ trợ và mở rộng kỹ thuật để cải tiến. Mỗi khâu
trên đều được chuyên môn hóa và có tính đơn nhất. Các quốc gia đang phát triển như
Ấn Độ, Trung Quốc và Nga đều không đủ nhân lực và năng lực để đảm nhiệm toàn
bộ chu kỳ sản phẩm cho một công ty đa quốc gia lớn ở Mỹ hay các nước phương Tây
phát triển. Song các nước đang phát triển trên đang dần nâng cao năng lực nghiên
cứu và phát triển của họ để có thể đảm nhiệm nhiều khâu hơn. Quá trình này tiếp tục
diễn ra sẽ đánh dấu sự kết thúc của mô hình cũ – khi một công ty đa quốc gia tự tiến
hành tất cả các khâu của chu kỳ phát triển sản phẩm bằng nguồn lực riêng của mình.
THIẾT KẾ
SẢN XUẤT
Logistics đầu vào
Sản xuất Logistics
đầu ra Đóng gói MARKETING TIÊU THỤ
8
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Từ đó tạo ra các chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs-Global Value Chains) là các chuỗi giá
trị cho phép các công đoạn của chuỗi đặt tại những địa điểm (quốc gia) có khả năng
mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất.
2. Đặc điểm
a) Quản trị chuỗi
Định nghĩa (Humphrey & Schmitz, 2002): Quản trị chuỗi là mối quan hệ giữa
các bên tham gia và các cơ chế, thể chế mà thông qua đó các hoạt động điều phối phi
thị trường được thực hiện. Quản trị chuỗi giúp trả lời bốn câu hỏi quan trọng: Sản
xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Khi nào thì sản xuất? Số lượng là bao nhiêu?
Gary Gereffi, John Humphrey, và Timothy Sturgeon, trong nghiên cứu “Quản
trị chuỗi giá trị toàn cầu” [18;85] đưa ra năm mô hình quản trị GVC khác nhau như
sau:
- Thị trường: là hình thức đơn giản nhất của quản trị GVC. Cơ chế quản trị
trung tâm là giá cả. Liên kết giữa các hoạt động chuỗi giá trị không chặt chẽ vì thông
tin được trao đổi và kiến thức chia sẻ bên trong tương đối đơn giản. Do đó, chi phí để
chuyển sang đối tác khác là thấp đối với các tác nhân trong chuỗi.
- Chuỗi giá trị mẫu: các nhà cung cấp trong kiểu quản trị này cung cấp sản
phẩm hoặc dịch vụ theo chỉ dẫn chi tiết của khách hàng. Tuy vậy, khi cung cấp dịch
vụ “chìa khóa trao tay”, nhà cung cấp có xu hướng chịu trách nhiệm hoàn toàn về quy
trình công nghệ và thường sử dụng các loại máy móc phổ biến để thu hồi đầu tư từ
một lượng khách hàng lớn. Điều này giữ chi phí chuyển đổi thấp và giới hạn việc đầu
tư vào các giao dịch cụ thể, ngay cả khi quan hệ giữa người mua và nhà cung cấp là
phức tạp. Các liên kết trong kiểu quản trị này chặt chẽ hơn kiểu quản trị thị trường
giản đơn vì khối lượng thông tin luân chuyển trong liên kết giữa các công ty lớn hơn.
- Chuỗi giá trị quan hệ: trong những mạng lưới có kiểu quản trị này, tương tác
giữa người bán và người mua là tương đối phức tạp, tạo ra những mối quan hệ phụ
thuộc chặt chẽ hơn và những đặc trưng ở cấp độ cao hơn so với hai kiểu quản trị thị
trường và quản trị mẫu. Những liên kết đó bị chi phối bởi danh tiếng, hoặc yếu tố gia
đình và các ràng buộc xã hội. Một số nhà nghiên cứu cho rằng khoảng cách gần gũi
9
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
giữa các tác nhân giúp tạo các liên kết trong kiểu quản trị này; tuy nhiên sự tin tưởng
và danh tiếng mới thực sự đóng vai trò chính trong việc kết nối các tác nhân, ngay cả
đối với những mạng lưới phi tập trung. Do cần nhiều thời gian tạo dựng lòng tin và
sự phụ thuộc lẫn nhau nên chi phí chuyển đổi sang các đối tác mới thường cao.
- Chuỗi giá trị phụ thuộc: trong kiểu quản trị chuỗi này, nhà cung cấp nhỏ phụ
thuộc nhiều vào những người mua lớn và người mua chi phối. Việc phụ thuộc vào
công ty đầu ngành làm tăng chi phí chuyển đổi đối với các nhà cung cấp. Trong
mạng lưới có kiểu quản trị này, các công ty dẫn đầu thường đóng vai trò kiểm soát và
giám sát chặt chẽ các hoạt động toàn chuỗi. Quan hệ quyền lực bất cân xứng buộc
các nhà cung cấp liên kết với khách hàng chặt chẽ hơn và do đó chi phí chuyển đổi
cũng cao hơn.
- Cấp bậc: mô hình quản trị này là đặc trưng của hội nhập theo chiều dọc (khi
đó các giao dịch diễn ra bên trong một công ty duy nhất). Hình thức quản trị chi phối
là kiểm soát việc quản lý, theo thứ tự từ người quản lý cấp cao tới nhân viên hoặc từ
trụ sở tới các công ty con và chi nhánh.
Bảng 1 nêu ra các nhân tố quyết định tới quản trị chuỗi, dựa trên các tiêu chí về
mức độ phức tạp của các giao dịch, khả năng hệ thống hóa giao dịch, năng lực cung
ứng cũng như mức độ bất cân xứng quyền lực trong các các quản trị chuỗi khác nhau.
BẢNG 1: CÁC NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH TỚI QUẢN TRỊ CHUỖI
Dạng quản trị Mức độ phức tạp
của giao dịch
Khả năng hệ thống
hóa giao dịch
Năng lực
cung ứng
Mức độ bất cân
xứng quyền lực
Thị trường Thấp Cao Cao Thấp
Mẫu Cao Cao Cao
Quan hệ Cao Thấp Cao
Phụ thuộc Cao Cao Thấp
Cấp bậc Cao Thấp Thấp Cao
Nguồn: Gary Gereffi, John Humphrey, Timothy Sturgeon, 2005
b) Nâng cấp chuỗi giá trị
10