Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ
(2005-2007)
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN
SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Cơ quan chủ trì: Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh
Chủ nhiệm đề tài: GS, TS Trịnh Nhu
Thư ký đề tài: TS Trần Trọng Thơ
Ths Nguyễn Danh Lợi
7391
08/6/2009
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
Mở đầu 4
Chương I: Những nhận thực mới của đảng cộng sản việt nam về chủ nghĩa
xã hội và về những đặc trưng, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
việt nam
8
Chương II: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 57
Chương III: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân, vì dân trong công cuộc đổi mới
113
Chương IV: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện kinh tế thị
trường, mở cửa, hội nhập
163
Chương V: Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc 198
Chương VI: Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng hồ chí minh về xây dựng con người,
phát triển văn hoá trong sự nghiệp đổi mới
278
Chương VII: Quốc phòng - an ninh trong thời kỳ đổi mới 330
Chương VIII: Xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại 380
Chương IX: Đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá 450
Chương X: Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện tăng trưởng
kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội trong hai mươi năm đổi mới
đất nước (1986-2006)
516
Chương XI: Những quan điểm mới về tôn giáo và chính sách tôn giáo
của Đảng Cộng sản Việt Nam
590
Kết luận 629
Danh mục tài liệu tham khảo 646
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
cộng sản Việt Nam (1991) đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động
của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Trên tảng nền lý luận, tư tưởng đó,
Đảng và nhân dân ta đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện trong hơn
20 năm qua. Thành tựu của công cuộc đổi mới đã chứng minh tính đúng
đắn của Đường lối đổi mới do Đảng kiến lập và lãnh đạo, thành quả của
toàn Đảng, toàn dân ta. Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự vận dụng và sáng tạo di sản tư
tưởng, tinh thần vô giá trên của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới cần phải
được nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống để truyền bá trong Đảng và
xã hội nhằm khai thác, nâng cao năng lực tư duy chính trị, trí tuệ khoa học
của Đảng, sự thống nhất về tư tưởng, quan điểm chính trị trong Đảng và
quần chúng, củng cố lòng tin trong nhân dân, bảo đảm cho công cuộc đổi
mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội trên đất nước Việt Nam độc lập và thống nhất.
Nghiên cứu Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển sáng
tạo Chủ nghĩa Mác- Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi
mới góp phần đổi mới nhận thức lý luận nhằm khẳng định và bảo vệ chân
giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chống lại các
luận điểm sai trái, xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội và bọn phản bội mục
tiêu, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, phản bội dân tộc; củng cố vững chắc cơ
sở lý luận, phương pháp luận các quyết sách của Đảng và Nhà nước trong
sự nghiệp Đổi mới; phát triển nền học thuật của đất nước, đưa lý luận và
khoa học xã hội nhân văn lên ngang tầm với đòi hỏi của hiện thực đời
sống.
Nghiên cứu đề tài cũng chính là thực hiện nhiệm vụ chính trị của
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh , trong đó nghiên cứu chủ nghĩa
5
Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ đề nổi bật, giữ vị trí chủ đạo
, bao trùm và xuyên suốt trong mọi hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo
dục và đào tạo của Học viện. Nghiên cứu đề tài này cũng góp phần tạo ra
môi trường học thuật và tư tưởng thúc đẩy sự phát triển của năng lực tư
duy khoa học, lý luận và phương pháp sáng tạo, nâng cao trình độ nghiên
cứu, rèn luyện bản lĩnh khoa học, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, giảng viên, nghiên cứu viên và học viên của Học viện; nâng cao
uy tín, vị thế của Học viện trong lĩnh vực tư tưởng lý luận, khoa học xã hội
– nhân văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình đề cập trên những giác độ khác nhau về vấn
đề này, trong đó có những công trình tiêu biểu như: GS Nguyễn Đức Bình(
Chủ biên): Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , Nxb CTQG
, H. 2003; Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm
đổi mới (1986-2006), Nxb CTQG và Văn phòng Trung ương Đảng ấn
hành năm 2005; Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc
gia các bộ môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình
Tư tưởng Hồ Chí Minh , Nxb CTQG, H.2003 ; GS Song Thành: Hồ Chí
Minh – Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, H. 2005; TS Nguyễn
Văn Sáu (Chủ biên): Nghiên cứu giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, H.2005. ...Những công trình trên đã
nghiên cứu, phân tích những quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ
nghĩa xã hội, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội, về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân và vì dân, về Đảng cầm quyền, về Mặt trận dân tộc thống nhất và
đại đoàn kết dân tộc, về xây dựng kinh tế trong thì kỳ quá độ, về xây dựng
văn hoá, về quan hệ đối ngoại, về quyền con người, quá trình Đảng ta đổi
mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về thành tựu đổi mới, những bài học,
kinh nghiệm về đổi mới, về vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác lênin
trong điều kiện lịch sử mới, về những vấn đề đang đặt ra về mặt lý luận
trong quá trình đổi mới ...Tuy nhiên chưa có công trình nào đề cập một
cách có hệ thống, toàn diện về việc Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng và
6
phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác- Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
sự nghiệp đổi mới.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Quán triệt quan điểm, lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, con đường, cách thức quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; về động lực của sự phát triển, về Đảng cầm quyền, về
Nhà nước pháp quyền , về xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
vào việc phân tích sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
- Làm rõ những vấn đề đang đặt ra trong nhận thức, vận dụng và phát
triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình hiện
nay.
4. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu toàn diện quá trình Đảng vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp đổi mới và được bố cục thành 11 vấn đề. Ngoài ra, đề tài còn có 17
chuyên đề chuyên sâu
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài dựa trên chủ nghĩa duy vật và duy vật lịch sử, phép biện
chứng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước, Mặt trận, về an ninh, quốc phòng đối ngoại….
- Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn,
các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành: triết học, kinh tế học, chính trị
học, văn hoá học, tôn giáo học, sử học, luật học, khoa học quân sự... và các
phương pháp nghiên cứu liên ngành để thực hiện những vấn đề nghiên
cứu.
7
6. Lực lượng nghiên cứu
Đề tài mời hơn 40 nhà khoa học trong và ngoài Học viện, trong đó
có các giáo sư đầu ngành về các lĩnh vực liên quan đến đề tài và một số
cán bộ khoa học trẻ có triển vọng trong Học viện.
7. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài gồm 11
chương.
8
Chương I
NHỮNG NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ VỀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG,
PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - XÃ HỘI (1976 - 1980) VÀ YÊU CẦU CẤP
BÁCH TÌM CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khủng hoảng kinh tế - xã hội (1976 - 1980)
Tháng 4 nam 1975, sau đại thắng mùa xuân vĩ đại miền Nam nước ta
hoàn toàn giải phóng, nước ta độc lập, thống nhất toàn vẹn. Giai đoạn cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân kéo dài suất 30 năm đã hoàn thành về cơ bản.
Trên cơ sở những tiền đề và điều kiện mà giai đoạn cách mạng này tạo ra - sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản được củng cố, tăng cường; chính quyền dân chủ
nhân dân vững mạnh; khối đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công -
nông - trí thức được duy trì, phát triển; Mối quan hệ giữa nước ta với các
nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc được xây dựng và
củng cố chặt chẽ, nhờ đó nước ta nhận được sự giúp đỡ chí tình của các nước
xã hội chủ nghĩa, được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế
giới… nước ta có thể và cần phải chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Bởi vì chỉ có trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội thì nền độc lập
của nước ta mới được giữ vững, hơn nữa, chỉ có trong điều kiện của chủ
nghĩa xã hội thì nền độc lập mới thực sự mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc
cho đông đảo nhân dân. Điều này đã được Đảng ta ghi nhận trong Cương lĩnh
đầu tiên và đã trở thành đường lối cách mạng cơ bản của Đảng. Ngay sau khi
đất nước mới giành được độc lập sau 80 năm nô lệ Chủ tịch Hồ Chủ Minh
nhắc lại điều đó với tấm lòng tha thiết của Người: “Nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Năm 1975 sự chuyển biến giai đoạn cách mạng trở thành đòi hỏi bức
thiết và trực tiếp của công cuộc thống nhất đất nước sau 20 năm bị kẻ thù chia
cắt tạo nên hình thái một nước có hai chế độ đối lập nhau, đồng thời là đòi hỏi
của sự phát triển cách mạng nước ta trong dòng chảy liên tục của nó.
9
Nhưng vào thời kỳ diễn ra tiến trình chuyển biến cách mạng có ý nghĩa
lịch sử to lớn đó thì nước ta lại lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm
trọng. Cuộc khủng hoảng diễn ra trong những năm 1976 - 1980 đẩy nước ta
vào tình trạng hết sức khó khăn: hầu hết các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm
(1976-1980) đều không thực hiện được; đời sống vật chất của nhân dân rất
khó khăn bởi nhiều chỉ tiêu thiết yếu bị giảm sút; đời sống tinh thần căng
thẳng bởi nẩy sinh nhiều vấn đề xã hội gay gắt làm cho nước ta đứng trước
nguy cơ mất ổn định chính trị.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta bắt nguồn từ những
nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan bao gồm những nhân tố chủ yếu sau:
Ngay sau khi giải phóng miền Nam, chấm dứt cuộc chiến tranh chống
thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ 30 năm, nước ta lại phải dồn sức để đánh
bại các thế lực gây chiến tranh xâm phạm biên giới phía Tây Nam và phía
Bắc, giúp đỡ các lực lượng cách mạng Cămpuchia đánh đuổi bọn diệt chủng
Pôn bốt, xây dựng và giữ vững chính quyền cách mạng
Cũng thời gian đó nước ta phải đối phó với cuộc bao vây cấm vận của
Mỹ cùng với việc nhiều nước tư bản theo Mỹ hạn chế hoặc chấm dứt làm ăn,
buôn bán với ta, gây áp lực làm cho những khó khăn về kinh tế của ta trở nên
gay gắt thêm.
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Trung Quốc thì lâm
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc. Điều đó ảnh hưởng tiêu cực đến
nước ta, bởi vì: kể từ sau khi ta hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam,
sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, có hiệu quả mà trước đó các nước xã hội chủ nghĩa
dành cho ta đã chuyển thành sự hợp tác trao đổi bình đẳng, cùng có lợi. Lúc
này các nước đó lâm vào khủng hoảng, nên kế hoạch hợp tác đó bị điều chỉnh
nhiều, ngay cả hiệp ước hữu nghị Việt Nam – Liên Xô ký năm 1978 cũng bị
điều chỉnh. Đến đầu những năm 1990 khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu sụp đổ thì kế hoạch hợp tác đó bị đảo lộn hoàn toàn. Không chỉ
tác động tiêu cực về kinh tế, sự khủng hoảng và sự sụp đổ đó còn gây tác
động tiêu cực rất lớn đối với ta về mặt chính trị, tinh thần.
10
Nguyên nhân chủ quan gồm nhiều nhân tố, song nhân tố chính là
những thiếu sót trong chỉ đạo quá trình chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, đặc biệt là
sư bất cập trong lựa chọn mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về thiếu sót trong chỉ đạo quá trình chuyển từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước.
Một thời gian ngắn sau khi miền Nam được giải phóng, Hội nghị lần
thử 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng (8-1975) đã xác định nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là: “Hoàn thành thống
nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, miền Nam phải đồng
thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Thế nhưng do bị chi phối bởi tư tưởng chủ quan nẩy sinh sau thắng lợi
to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ (VI.Lênin gọi là bệnh “kiêu ngạo
cộng sản”) chịu sức ép dồn nén về mặt tâm lý bởi 20 năm chờ đợi nước nhà
thống nhất để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, do còn thiếu tri thức về các
quy luật phát triển kinh tế xã hội…, lại mắc bệnh học tập theo lối sao chép
kinh nghiệm của nước ngoài… các kế hoạch chuyển sang cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên cả nước được soạn thảo và thực hiện với ảo tưởng có thề giành
thắng lợi hoàn toàn trong một định kỳ ngắn.
Hàng loạt kế hoạch được xây dựng trên cơ sở giả định về sự chín muồi
quá sớm của chủ nghĩa xã hội, theo đó dường như ở nước ta đã có sẵn nền
tảng vững chắc của chủ nghĩa xã hội. Từ đó, điểm xuất phát của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội không được xác định chính xác, các bước quá độ,
trung gian của quá trình phát triển chủ nghĩa xã hội không được nhận thức và
tôn trọng đầy đủ.
Tính “giao kết”1
giữa hai giai đoạn cách mạng - cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa - không được nghiên cứu đầy
đủ và thực hiện nghiêm túc. Nhiệm vụ dân tộc, dân chủ - đặc biệt là nhiệm vụ
1 . Chữ dung của VI.Lênin trong tác phẩm “Hai sách lược của Đảng xã hội – dân chủ trong cách
mạng dân chủ”.
11
dân chủ - trong khuôn khổ của giai đoạn cách mạng trước đáng lẽ còn phải
được thực hiện ở mức độ cao hơn để tạo lập “măt bằng” trực tiếp cho việc
triển khai giai đoạn cách mạng sau (giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa) thì
trong thực tế bị xem nhẹ, thậm chí bị lãng quên. Chính vì thế bước chuyển
tiếp giai đoạn cách mạng không tránh khỏi sự hẫng hụt, mất thăng bằng trong
nhiều lúc và ở nhiều lĩnh vực. Việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên
chủ nghĩa xã hội đã có lúc được hiểu như sự loại trừ tức khắc mọi yếu tố của
chủ nghĩa tư bản và trong việc làm đã có nơi, có lúc bị chi phối bởi lối nghĩ
giáo điều tai hại “cái gì càng khác với chủ nghĩa tư bản thì càng mang tính
chất xã hội chủ nghĩa”. Thế là, những nhân tố hữu ích của chủ nghĩa tư bản
không được sử dụng như những “nguyên vật liệu cần thiết” để xây dựng chủ
nghĩa xã hội; những biện pháp tư sản còn có ý nghĩa tích cực đối với cuộc
sống không được áp dụng để bước đi của chủ nghĩa xã hội thích nghi với đòi
hỏi của cuộc sống và để “xuyên qua chủ nghĩa tư bản” mà tiến tới chủ nghĩa
xã hội.
Về sự bất cập trong sự lựa chọn mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội lần thứ III của Đảng (9/1960) là dấu mốc lịch sử quan trọng
của cách mạng Việt Nam, vạch ra con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đường lối
chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc được
Nghị quyết Đại hội nêu lên là: “Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu
nước nồng nàn, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân
dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em
do Liên Xô đứng đầu để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và
củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh hoà bình, thống
nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở
Đông Nam Á và thế giới.
Muốn đạt được mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân
dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công
thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh,
12
thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá
và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp
hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến”1
.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đại hội III đề ra
đã dấy lên các phong trào thi đua sôi nổi: “Ba nhất’, “Đại phong”, “Duyên
hải”, “Thành công”, “Bắc Lý”, qua đó tinh thần tự lực, tự cường, cần kiệm
xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta được phát huy mạnh mẽ.
Đấu năm 1963 Bộ Chính trị đề ra “Ba cuộc vận động” lớn. Cuộc vận
động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp; cuộc
vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính,
cải tiến kỹ thuật, chống quan liêu lãng phí, tham ô, gọi tắt là cuộc vận động
“Ba xây, ba chống” trong công thương nghiệp; cuộc vận động phát triển kinh
tế miền núi.
Tuy thế, trong vấn đề quan hệ sản xuất nói chung, vấn đề quản lý kinh
tế nói riêng Đảng ta chưa tìm được đường hướng giải quyết cơ bản, ngược lại
mắc phải sự lầm chủ quan, nóng vội làm cho tình hình trở nên phức tạp hơn.
Điều đó biểu hiện rõ nhất trong lĩnh vực nông nghiệp: Việc chuyển các hợp
tác xã lên bậc cao diễn ra ào ạt. Đến cuối 1965, 89% số hợp tác xã nông
nghiệp đã chuyển lên bậc cao, đến cuối năm 1967 số hộ nông dân đã vào hợp
tác xã đạt 93,7%, trong đó hợp tác xã bậc cao chiếm 88,8% số hộ. Chính vì
thế mà khó khăn đã không được khắc phục, những hiện tượng tiêu cực trong
hợp tác xã nẩy sinh ngày càng nhiều. Quyền làm chủ của xã viên chưa được
bảo đảm, tình trạng tham ô, thiếu minh bạch trong sản xuất phân phối khá
phổ biến đã ảnh hưởng xấu đến tính tích cực của người lao động. Hiện tượng
“phá rào”, “làm chui” về tổ chức, quản lý hợp tác xã nông nghiệp đã xảy ra ở
một số nơi như Vĩnh Phú, Đồ Sơn…
Khó khăn lúng túng đó càng trở nên gay gắt bởi sự tác động của
nguyên nhân khách quan làm thay đổi căn bản tình hình: từ cuối năm 1964 đế
1 . Văn kiện Đại hội, tập I, HN. 1960. tr 179-180.
13
quốc Mỹ và tay sai tiến hành chiến tranh phá hoại ác liệt đối với miền Bắc.
Khí thế hào hùng “Tất cả cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”
phải chuyển thành khí thế: “Tất cả cho tiền tuyến! Tất cả để chiến thắng giặc
Mỹ xâm lược”. Nhiều phương hướng, kế hoạch, chỉ tiêu do Đại hội III đề ra
đã được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình đã thay đổi.
Trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng ác liệt, Đảng không tổ chức
Đại hội, nhưng các hội nghị Trung ương đã thảo luận và ra những Nghị quyết
quan trọng về triển khai công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt
những bài viết của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước - bài của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho
các dân tộc” (1967); bài của đồng chí Lê Duẩn “Hăng hái tiến lên dưới ngọn
cờ vĩ đại của cách mạng Tháng Mười”; tác phẩm của đồng chí Trường Chinh
“Đời đời nhớ ơn Các Mác và đi con đường Các Mác đã vạch ra” (1968); tác
phẩm của đồng chí Lê Duẩn “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do,
vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới”… - đã làm sang tỏ
hơn nhiều khía cạnh quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, phương hướng và nhưng giải pháp chiến
lược nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong giai đoạn trước mắt
và cả nước trong tương lai.
Trong các bài viết, bài nói của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
nhấn mạnh sự cần thiết phải ra sức học tập để lĩnh hội cho được thực chất
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội rồi đem vận dụng
sáng tạo quan điểm đó vào điều kiện cụ thể của nước ta, trong đó “đặc điểm
to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”1
. Người nhấn mạnh sự cần thiết học tập kinh nghiệm của các nước
anh em, nhưng căn dặn “không thể áp dụng kinh nghiệm ấy một cách máy
móc”2
. Ngay cả kinh nghiệm của Liên Xô cũng cần phân tích và tiếp thu có
chọn lọc, bởi vì “Ta không giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán
1 . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 10, tr. 13. 2 . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 8, tr. 498-499.
14
khác, có lịch sử, địa lý khác”1
. Đáng tiếc, những điều chỉ dẫn cực kỳ quan
trọng đó không được quán triệt đầy đủ.
Khi chuyển từ giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi miền
Bắc sang giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1975)
vấn đề con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước
ta lại một lần nữa được đặt ra để xem xét. Nhưng xu hướng tư tưởng chung
của Đảng và đông đảo nhân dân ta lúc đó là cần tiếp tục áp dụng triệt để hơn,
với tốc độ nhanh hơn những gì đã từng được áp dụng trước đó ở miền Bắc.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 242 được Đại hội IV của Đảng (từ
14 đến 20/12/1976) khẳng định và phát triển thêm: “Nắm vững chuyên chính
vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng
khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa
học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế
độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa;
xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, không
ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh
chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình,
độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã
hội”3
Vào thời gian đó nhiều nhân tố trong quan hệ quốc tế ảnh hưởng đến
sự lựa chọn mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta theo hướng ngả về mô hình
chủ nghĩa xã hội Liên Xô trong đó nổi bật là: sự gắn bó về mặt lịch sử giữa
cách mạng nước ta với cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, sự chi phối
của cục diện thế giới hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai mà đặc
trưng là sự tồn tại hai thế lực lớn thường gọi là hai phe (phe xã hội chủ nghĩa
do Liên Xô đứng đầu, phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu) mà nước ta
1 . Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 8, tr. 227. 2 . Đã trích ở trên. 3 . Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Sự thật. HN. 1997. tr. 29.
15
ngay từ đầu đã đứng về phe xã hội chủ nghĩa; sự hấp dẫn của những thành
tựu mà nhân dân Liên Xô giành được trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn và chí tình của Liên Xô
đối với nước ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc…
Những nhân tố trên làm cho mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta vốn
đã có những nét tương đồng với mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô ngày càng
mang tính sao chép mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô.
Phải khách quan thừa nhận rằng, vào thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô đã phát huy tác dụng tích
cực tạo nên nhịp độ phát triển kinh tế cao, những nét ưu việt của chế độ mới
trong mô hình đó đã khơi dậy và phát huy một chủ nghĩa anh hùng cách
mạng trong đông đảo nhân dân Liên Xô và thể hiện nó trong sự nghiệp lao
động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, mô hình đó vốn
mang trong nó những khiếm khuyết.
Do chậm được phát hiện và không có giải pháp sửa chữa đúng đắn,
những khiếm khuyết của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô ngày càng bộc lộ
rõ mâu thuẫn gay gắt với nhu cầu phát triển của chủ nghĩa xã hội và rốt cuộc
nó đã sụp đổ ngay trên mảnh đất mà lần đầu tiên nó đã xuất hiện. Mô hình ấy
được áp dụng theo lối sao chép vào một số nước xã hội chủ nghĩa, trong đó
có nước ta càng nhanh chóng bộc lộ sự không phù hợp.
Ở nước ta sự không phụ hợp của mô hình Liên Xô bộc lộ rất rõ trong
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 70, đầu những năm 80.
Cuộc khủng hoảng đó tạo nên một áp lực rất lớn đòi hỏi Đảng ta, nhân dân ta
tìm ra một mô hình mới, thay thế mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô.
1. 2. Yêu cầu bức bách tìm con đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Đổi mới là nhu cầu tự thân của chủ nghĩa xã hội trong suốt tiến trình
phát triển. Trong các bước tiệm tiến của chủ nghĩa xã hội nhu cầu đó thường
xuyên nẩy sinh và biểu hiện thành đòi hỏi hoặc là sửa chữa có tính cục bộ mô
hình đã thiết kế, hoặc là uốn nắn, thay đổi, bổ sung có tính chi tiết phương
16
hướng đã xác định, giải pháp đã nêu ra và đang thực hiện. Khi hoàn cảnh
khách quan và những điều kiện chủ quan của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội có những thay đổi lớn, nhất là khi mà công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội chuyển tiếp từ giai đoạn này sang giai đoạn khác thì xuất hiện nhu cầu
đồi mới mang tính toàn diện, sâu sắc và bức bách.
Nước ta, trong khoảng thời gian đang đề cập (1976-1980) có sự kết
hợp những yêu cầu đổi mới nẩy sinh từ giai đoạn trước - giai đoạn miền Bắc
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương vững chắc cho cả
nước; miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giành lại độc
lập, thống nhất toàn vẹn cho đất nước, chuẩn bị những tiền đề để cùng cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội - với những yêu cầu nẩy sinh trong bước
chuyển biến “kép” có ý nghĩa lịch sử của cách mạng: bước chuyển của cả
nước từ giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân sang giai đoạn cách mạng xã
hội chủ nghĩa diễn ra cùng lúc với bước chuyển của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội từ miền Bắc mở rộng ra cả nước. Những nhu cầu đổi mới to lớn,
bức bách đó xuất hiện vào lúc tình hình thế giới và trong nước đặt ra nhiều
thử thách cực kỳ gay gắt - như đã trình bày ở phần trên - đã trở thành nhu cầu
sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tính bức bách đặc biệt của những nhu cầu đó biểu hiện ở chỗ:
Về kinh tế:
Thời kỳ 1976-1980, trong khi ở miền Bắc, mô hình hợp tác xã nông
nghiệp theo kiểu tập trung, quy mô lớn đã phát triển đến bước cao nhất và
lâm vào tình trạng trì trệ, thì mô hình ấy được áp dụng vào các tỉnh phía Nam
có môi trường kinh tế - xã hội khác và do đó tác động tiêu cực của nó càng
sớm bộc lộ. Từ cuối năm 1978 đến cuối năm 1980, phong trào hợp tác hoá
nông nghiệp được đẩy mạnh ở miền Nam.
Tính đến tháng 7/1980 toàn miền đã xây dựng được 1518 hợp tác xã,
9350 tập đoàn sản xuất thu hút 35,6% số hộ nông dân vào con đường làm ăn
tập thể. Còn trong cả nước thì những năm 1976-1980, nhà nước đầu tư cho
nông nghiệp không ngừng tăng lên (chiếm tỷ trọng từ 19% đến 23 %) là giai
đoạn đầu tư cao nhất, song năng suất lúa lại giảm đến mức thấp nhất (năm