Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo dục quốc phòng cho sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2010
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
TRẦN HỒNG HẢI
§¶NG CéNG S¶N VIÖT NAM L·NH §¹O C¤NG T¸C
GI¸O DôC QUèC PHßNG CHO SINH VI£N C¸C TR¦êNG §¹I HäC,
CAO §¼NG Tõ n¨m 2001 §ÕN n¨M 2010
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2013
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
TRẦN HỒNG HẢI
§¶NG CéNG S¶N VIÖT NAM L·NH §¹O C¤NG T¸C
GI¸O DôC QUèC PHßNG CHO SINH VI£N C¸C TR¦êNG §¹I HäC,
CAO §¼NG Tõ n¨m 2001 §ÕN n¨m 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 22 03 15
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS Nguyễn Hữu Luận
2. PGS, TS Ngô Đăng Tri
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, số
liệu trích dẫn trong luận án đều trung
thực và có xuất xứ rõ ràng.
Trần Hồng Hải
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 5
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 9
Chƣơng 1 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ
CÔNG TÁC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG CHO
SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO
ĐẲNG (2001 – 2005) 25
1.1. Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng về công
tác giáo dục quốc phòng cho sinh viên các trường đại
học, cao đẳng (2001-2005) 25
1.2. Đảng chỉ đạo công tác giáo dục quốc phòng cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng (2001 – 2005) 49
Chƣơng 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC
GIÁO DỤC QUỐC PHÕNG CHO SINH VIÊN CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG (2006 – 2010) 66
2.1. Tình hình mới và chủ trương của Đảng về đẩy mạnh
công tác giáo dục quốc phòng cho sinh viên các trường
đại học, cao đẳng (2006 – 2010) 66
2.2. Đảng chỉ đạo đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng
cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng (2006 – 2010) 90
Chƣơng 3 NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 108
3.1. Một số nhận xét về quá trình Đảng lãnh đạo công tác
giáo dục quốc phòng cho sinh viên các trường đại học,
cao đẳng trong những năm 2001 – 2010 108
3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu 124
KẾT LUẬN 159
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐỀN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 164
PHỤ LỤC 180
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
1 Bộ Quốc phòng BQP
2 Chỉ thị CT
3 Chính phủ CP
4 Đại học, cao đẳng ĐH, CĐ
5 Giáo dục quốc phòng GDQP
6 Giáo dục quốc phòng - an ninh GDQP-AN
7 Giáo dục và đào tạo GD&ĐT
8 Nhà xuất bản Nxb
9 Quyết định QĐ
10 Thông tư liên tịch TTLT
11 Trung ương TW
12 Xem x.
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Công trình nghiên cứu có tiêu đề: "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
công tác giáo dục quốc phòng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng từ
năm 2001 đến năm 2010". Theo Từ điển Bách khoa quân sự, GDQP được
hiểu là quá trình giáo dục ý thức, tri thức và kỹ năng quân sự cần thiết cho
toàn dân nhằm phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; bao gồm các hoạt động
giáo dục, bồi dưỡng ý thức và tri thức quân sự cho học viên ở các học viện,
nhà trường từ Trung ương đến địa phương và mọi tầng lớp nhân dân. Theo
đó, công tác GDQP cho sinh viên các trường ĐH, CĐ là một bộ phận có vị trí,
vai trò quan trọng trong GDQP toàn dân. Đó là toàn bộ các hoạt động, từ xác
định chủ trương, chính sách đến quá trình tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh
giá công tác GDQP cho sinh viên các trường ĐH, CĐ của các lực lượng liên
quan. Trong mọi giai đoạn cách mạng, sinh viên các trường ĐH, CĐ luôn
đóng vai trò quan trọng và GDQP được coi là giải pháp chiến lược, tích cực,
chủ động nhằm phát huy cao nhất khả năng của sinh viên trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để nghiên cứu đề tài luận án, nghiên cứu sinh căn cứ vào chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về GDQP, thực tiễn
công tác GDQP cho sinh viên các trường ĐH, CĐ từ năm 2001 đến năm 2010;
đồng thời tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trong và
ngoài nước có liên quan để làm luận cứ triển khai nghiên cứu đề tài luận án.
Kết cấu luận án gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục
các công trình khoa học đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục. Kết cấu đó đảm bảo cho công trình được nghiên cứu với đủ hệ
thống cơ sở lý luận và thực tiễn; từ đó, rút ra các kinh nghiệm chủ yếu của
Đảng trong quá trình lãnh đạo công tác GDQP cho sinh viên các trường ĐH,
CĐ từ năm 2001 đến năm 2010.
6
2. Lý do lựa chọn đề tài
Ngày nay, GDQP luôn là một nhiệm vụ quan trọng của nhiều quốc gia
trên thế giới, nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tham gia phòng thủ, bảo vệ đất
nước, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh. Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước luôn
xác định và thực hiện nhất quán quan điểm phát huy sức mạnh của toàn dân và cả
hệ thống chính trị trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. GDQP trở thành một
nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) nhấn
mạnh quan điểm phải: “Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo
dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và toàn dân,
có nội dung phù hợp với từng đối tượng và đưa vào chương trình chính khoá
trong các nhà trường theo cấp học, bậc học” [77, tr.109].
Là một bộ phận trong GDQP toàn dân, công tác GDQP cho sinh viên
các trường ĐH, CĐ có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, được đào tạo cơ bản,
sinh viên sẽ là nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn bó lâu dài với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phần lớn sinh viên sau này sẽ đảm nhiệm những
vị trí công tác nhất định trong hệ thống chính trị và trên các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Chính sinh viên sẽ là lực
lượng góp phần quan trọng vào việc giữ vững con đường phát triển của Việt
Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Nhận thức rõ vấn đề
này, trong những năm qua, công tác GDQP cho sinh viên các trường ĐH, CĐ
luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và ngày càng đi
vào nền nếp, thu được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy,
bên cạnh những kết quả đạt được, công tác GDQP cho sinh viên các trường
ĐH, CĐ hiện nay vẫn còn có những hạn chế, bất cập.
Mặt khác, từ sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông
Âu sụp đổ vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, với
7
mưu đồ xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn ("diễn biến
hoà bình", bạo loạn lật đổ, răn đe quân sự…), với mức độ ngày càng tinh vi,
quyết liệt trên mọi lĩnh vực để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại,
trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Nhận thức rõ vai trò của học sinh,
sinh viên cũng như thế hệ trẻ Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc xác định sinh
viên là một trong những đối tượng tập trung chống phá, hòng làm chuyển
hoá ý thức hệ, mơ hồ về nhận thức giai cấp, về lâu dài âm mưu lái Việt Nam
theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc, với những nước chưa mạnh về tiềm lực
kinh tế, quân sự, thì việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh
của nhân dân có ý nghĩa quan trọng nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc. Trong đó, GDQP được coi là một giải pháp cơ bản để xây
dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Do vậy, cùng với việc xây dựng kinh
tế là trung tâm, từ năm 2001 đến năm 2010, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm, đẩy
mạnh công tác GDQP toàn dân nói chung và nhất là cho sinh viên các trường ĐH,
CĐ nói riêng, những chủ nhân của đất nước sau này.
Xuất phát từ những lý do chủ yếu trên tác giả chọn nghiên cứu đề tài
“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo dục quốc phòng cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2010” làm luận án
tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Nhằm rút ra kinh nghiệm chủ
yếu từ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo dục quốc
phòng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2010
để vận dụng vào thực tiễn nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng
cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác GDQP cho sinh viên các trường ĐH, CĐ.
8
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Trên phạm vi cả nước, tập trung ở một số trường ĐH,
CĐ trọng điểm (x. Phụ lục 6, 7, 8).
- Thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010 (có mở rộng nghiên cứu
thực trạng giáo dục quốc phòng cho sinh viên trước năm 2001).
- Nội dung:
+ Trong quá trình hình thành, phát triển, GDQP cho sinh viên có sự
phát triển cả về tên gọi và nội dung. Từ năm 1961 đến năm 1991 gọi là huấn
luyện quân sự; từ năm 1991 đến năm 2006 gọi là GDQP; từ năm 2007 đến
nay đổi tên thành GDQP-AN. Trong phạm vi giới hạn của luận án, nghiên
cứu sinh sử dụng tên gọi chung và thống nhất là GDQP; trong đó tập trung đi
sâu nghiên cứu vào các nội dung quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
+ Luận án nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về công tác
GDQP cho sinh viên các trường ĐH, CĐ; khái quát kết quả và rút ra kinh
nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GDQP cho sinh viên các
trường ĐH, CĐ từ năm 2001 đến năm 2010.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Đóng góp mới của đề tài luận án
- Làm rõ quá trình bổ sung, phát triển trong chủ trương, chỉ đạo của
Đảng đối với công tác GDQP cho sinh viên các trường ĐH, CĐ từ năm 2001
đến năm 2010.
- Rút ra kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác
GDQP cho sinh viên các trường ĐH, CĐ giai đoạn 2001-2010.
- Bước đầu đưa ra một số đề xuất nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác GDQP cho sinh viên các trường ĐH, CĐ.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận án
- Cung cấp những luận cứ khoa học về sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác GDQP cho sinh viên.
- Làm cơ sở góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với
công tác GDQP cho sinh viên các ĐH, CĐ. Luận án có thể dùng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
trong các trường ĐH, CĐ và những môn học có liên quan.
9
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1. Các công trình nghiên cứu về giáo dục quốc phòng ở nước ngoài
Qua nghiên cứu các công trình về công tác GDQP ở nước ngoài có thế
khái quát công tác GDQP ở một số nước trên một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, về xác định mục đích, nội dung GDQP.
Trong bài “Giáo dục quốc phòng ở Mỹ”, tác giả Ngụy Nhạc Giang cho
rằng, ở Mỹ, “mục đích giáo dục quốc phòng là tập trung giáo dục cho mọi công
dân hướng vào: yêu đất nước, biết phục tùng, trọng đoàn thể, chịu cống hiến”
[136, tr.2]. Theo tác giả, trong suy nghĩ và quan niệm của nhiều người, ở Mỹ
rất nhiều người chỉ nói tự do, không lo phục tùng. Vì thế, trong GDQP, nhiệm
vụ của người sĩ quan Mỹ là phải nói cho học sinh biết, một người không biết
phục tùng không phải là một công dân hoàn chỉnh. Đặc biệt, trong các nội dung
thì giáo dục chủ nghĩa yêu nước theo lập trường giai cấp tư sản - giai cấp cầm
quyền ở Mỹ là nội dung cốt lõi của GDQP.
Cũng trong bài này, tác giả nêu rõ: “điểm khác biệt trong nội dung
giáo dục quốc phòng ở nước Mỹ là khi bồi dưỡng tư tưởng yêu nước cho
công dân, họ không tập trung chú ý vào khu vực cư trú và quốc dân, mà nặng
về hệ thống tư tưởng có liên quan mật thiết với đời sống xã hội” [136, tr.3].
Qua nghiên cứu, tác giả giải thích rằng, điều này xuất phát từ chính lịch sử ra
đời, con đường phát triển mà nước Mỹ đã trải qua tương đối ngắn, hình thành
một quốc gia nhiều dân tộc, những dân tộc đó đều coi nước Mỹ là quê hương
mình. Vì vậy, khái niệm mà họ sử dụng không phải là "tổ quốc”, "cố hương”,
mà là "nước Mỹ”, "lối sống Mỹ”. Do chịu sự giáo dục đó, nên nhiều công dân
Mỹ hết sức nhạy cảm với uy danh, với toàn nước Mỹ, và rất trung thành với
quốc gia, dù điều đó là đúng hay sai. Đồng thời, do chịu ảnh hưởng của "tinh
thần Mỹ” khiến cho dễ tạo thành thói xấu là tư tưởng bá quyền, cho rằng Mỹ
có sứ mệnh đặc biệt đối với toàn cầu, là "duy trì trật tự mới của thế giới, gánh
10
vác trách nhiệm sen đầm thế giới”. Đây được xem là động lực mưu cầu địa vị
chủ đạo và bá quyền thế giới của Mỹ. Chính phủ Mỹ coi người Mỹ là "dân
tộc thượng đẳng”, dưới phương châm "lãnh đạo đúng đắn”, phải hoàn thành
trách nhiệm do "thượng đế" giao cho là lãnh đạo toàn thế giới tiến bước trên
đường dẫn tới thiên đàng. Quan niệm này thường được dùng để biện minh
cho mọi thủ đoạn bao gồm cả sử dụng sức mạnh quân sự, để bảo vệ quyền lợi
của Mỹ ở khắp nơi trên thế giới. Chịu chi phối bởi quan niệm này, Mỹ đã phổ
cập yêu cầu GDQP, các đoàn thể và bộ máy chính quyền các cấp phải coi chủ
nghĩa yêu nước là động lực tinh thần của thế giới cường quyền [136].
Ở Trung Quốc, qua nghiên cứu GDQP, các tác giả Đức Giang và
Quốc Ân đã khẳng định rõ: “mục đích của các khoá học giáo dục quốc phòng
là tăng cường rèn luyện sức khoẻ, tâm, sinh lý, thể chất cho học sinh, sinh
viên qua đó cũng là cách bồi dưỡng tinh thần dân tộc, yêu nước cho lớp trẻ”
[94, tr.1]. Đặc biệt, trong bài, “Giáo dục quốc phòng trong các nhà trường ở
Trung Quốc”, tác giả Nguyễn Nghĩa cũng chỉ rõ GDQP ở Trung Quốc nhằm
giúp cho sinh viên các trường đại học "nắm vững các kỹ năng quân sự, học
tập tư tưởng quân sự, lịch sử quân sự, mưu lược quân sự, v.v.. đồng thời đưa
các nội dung này vào kế hoạch học tập” [133, tr.34].
Thứ hai, về công tác GDQP.
Ở Mỹ, để thực hiện công tác GDQP, tác giả Ngụy Nhạc Giang nêu rõ:
“Chính quyền đặt ra một loạt tổ chức và bộ máy tương ứng, trong các trường
tiểu học, trung học, đại học, mở các khóa trình "lợi ích nước Mỹ trên hết”, khiến
cho học sinh có bộ mặt tâm lý đạo đức cần có, và bồi dưỡng tâm lý đạo đức cho
cả lính mới và lính cũ của lực lượng vũ trang Mỹ” [136, tr.2]. Cũng theo tác giả,
việc GDQP chia làm 2 lớp. Lớp thứ nhất nhằm vào thanh thiếu niên đang học
trung, tiểu học; lớp thứ hai nhằm vào sinh viên các trường ĐH, CĐ.
Lớp thứ nhất có đặc điểm không tiến hành theo đại cương dạy học của
trường, mà tổ chức theo thiếu sinh quân truyền thống, con trai thành lập nam
11
thiếu sinh quân, con gái thành lập nữ thiếu sinh quân. Tổ chức này đã có từ
năm 1910, hiện nay tại các bang nước Mỹ đều có các phân bộ, thu hút hàng
triệu thanh thiếu niên từ 8 đến 18 tuổi tham gia. Theo thống kê chính thức, ở
Mỹ số nam thiếu sinh quân là hơn 4 triệu, nữ thiếu sinh quân gần 3 triệu. Tất
cả các tổ chức thiếu sinh quân đều theo nguyên tắc tự nguyện gia nhập, cùng
tổ chức thành Hội liên hiệp thiếu sinh quân Mỹ. Bộ máy lãnh đạo là Hội đồng
toàn quốc Mỹ, các thành viên bao gồm các giới doanh nghiệp, tôn giáo, quân
đội, các nhân sĩ từ thiện. Tổng thống Mỹ là chủ tịch danh dự của Hội. Tổ
chức của thiếu sinh quân có chia rõ đẳng cấp, gồm câu lạc bộ, chi đội, phân
đội, vọng gác và tiểu đoàn đặc chủng [136].
Đối tượng bồi dưỡng ngoài quân đội lớp thứ hai là sinh viên các học
viện, nhà trường ĐH, CĐ. Lớp này được tiến hành theo hình thức lớp bồi
dưỡng ngoài quân đội sĩ quan ngạch dự bị, được gọi là trung đoàn huấn luyện
sĩ quan ngạch dự bị. Các chuyên gia Mỹ cho rằng, trung đoàn huấn luyện là
nguồn chủ yếu bổ sung sĩ quan cho lực lượng vũ trang, đặc biệt là trong thời
chiến. Ở Mỹ có hơn 300 trường đại học, học viện có mở khóa trình trung
đoàn huấn luyện sĩ quan dự bị lục quân chương trình 2 năm và 4 năm, hơn
600 trường đại học có trung đoàn huấn luyện sĩ quan dự bị không quân. Trung
đoàn huấn luyện sĩ quan dự bị hải quân cũng mở lớp ở 60 nhà trường, học
viện. Mọi kinh phí đều do nhà nước cấp với khoản tiền lớn.
Ở Trung Quốc, theo tác giả Nguyễn Nghĩa đã chỉ rõ, có nhiều trường
đại học thực hiện chương trình huấn luyện quân sự với thời gian là 8 tuần, các
bài lý luận khoảng 60 tiết. Chương trình huấn luyện quân sự và các bài lý luận
quân sự cho các trường đại học thực hiện theo "Đại cương huấn luyện quân
sự” cho sinh viên đại học, do Bộ Giáo dục, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục
Chính trị thống nhất. Trong các trường đại học có phòng nghiên cứu giáo dục
quân sự. Lực lượng huấn luyện do Bộ Tổng tham mưu thống nhất bố trí. Qua
nghiên cứu, tác giả chỉ rõ: "Huấn luyện quân sự cho sinh viên đại học không
12
những là một hình thức nghĩa vụ tập làm người lính, mà còn là một hình thức
quan trọng để ổn định tư tưởng, thường trực sẵn sàng trong mở cửa, tăng
cường lực lượng hậu bị cho quốc phòng, thực hiện hàng vạn người lính trong
dân" [133, tr.34].
Ở Nhật Bản, “Chính phủ đã thành lập các trung tâm giáo dục quốc
phòng tại các quân khu, địa phương để giáo dục quốc phòng cho học sinh,
sinh viên, lực lượng bán quân sự. Trung tâm là nơi nghiên cứu các vấn đề
quân sự, quốc phòng, hợp tác quốc tế về quân sự và chính sách giáo dục.”
[94, tr.3]. Theo tác giả, để nâng cao chất lượng GDQP, ngoài việc tăng
cường trang thiết bị, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, ở Nhật Bản, các trung tâm
tập trung xây dựng chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục phù hợp; tổ
chức huấn luyện thực hành theo phương châm "khó hóa”, tức là nâng cao
các tiêu chuẩn về môi trường quân sự, tăng cường sát hạch, kiểm tra; tổ
chức huấn luyện và tập bài tác chiến hiệp đồng sát với điều kiện khắc
nghiệt của chiến tranh hiện đại.
1.2. Các công trình nghiên cứu về giáo dục quốc phòng trong nước
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về công tác GDQP toàn dân và ở
các địa phương
- Các công trình viết về công tác GDQP toàn dân.
Hầu hết các công trình khi bàn về nội dung này đều quán triệt và
khẳng định rõ hơn quan điểm của Đảng, thực sự coi GDQP toàn dân là một
bộ phận của nền giáo dục quốc dân. Việc phổ cập và tăng cường GDQP toàn
dân là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, phải được chỉ
đạo, tổ chức thực hiện thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Các công
trình, bài viết chủ yếu tập trung làm rõ một số nội dung:
Thứ nhất, khẳng định vị trí, vai trò, của công tác GDQP toàn dân,
hầu hết các công trình đều khẳng định tính cấp thiết và tầm quan trọng của
công tác GDQP trong giai đoạn hiện nay, coi đây là giải pháp hàng đầu trong
13
xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh và giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lê Văn Dũng khẳng định:
“Giáo dục quốc phòng toàn dân vừa là một nội dung quan trọng và thường
xuyên của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, vừa là một nội dung
giáo dục quốc dân, nhằm giáo dục ý thức, kiến thức quốc phòng và kỹ năng
quân sự cần thiết…” [53, tr.53].
Cũng để khẳng định tính cấp thiết của công tác GDQP toàn dân,
Phạm Văn Trà khẳng định: “Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh, một trong những vấn đề quan tâm đầu tiên là phải làm tốt công tác
giáo dục quốc phòng toàn dân” [169, tr.33]. Trong bài viết “Bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng – an ninh cho cán bộ các cấp của Đảng, Nhà nước và
đoàn thể trung ương”, Nguyễn Thế Trị khẳng định: “Nhiệm vụ giáo dục
quốc phòng toàn dân, bởi vậy trở thành nhiệm vụ số một trong xây dựng
nền quốc phòng toàn dân” [161, tr.43]. Trong bài “Tăng cường hơn nữa
công tác giáo dục quốc phòng toàn dân trước tình hình mới”, Phùng Khắc
Đăng khẳng định: “giáo dục quốc phòng có vị trí rất quan trọng trong chiến
lược đào tạo con người mới của Đảng, nhằm nâng cao dân trí về quốc
phòng; đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ mới” [90, tr.24].
Thứ hai, đánh giá thực trạng công tác GDQP toàn dân, nhìn chung
các công trình, bài viết đều khẳng định công tác GDQP toàn dân tuy còn có
những khó khăn, vướng mắc nhưng về cơ bản đã được thực hiện hiệu quả hơn
so với những năm trước đây. Về nội dung, công tác GDQP toàn dân đã bám
sát quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; giáo
dục cho từng tổ chức chính trị, xã hội và từng người dân về ý thức và kiến
thức quốc phòng; về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; giáo dục
nâng cao cảnh giác cách mạng, nêu cao ý thức trách nhiệm trong việc tăng
cường xây dựng nền quốc phòng. Về hình thức, công tác GDQP toàn dân
14
được tiến hành thông qua hoạt động của các câu lạc bộ thể thao quốc phòng,
qua hệ thống thông tin đại chúng, hệ thống tuyên truyền viên, qua giáo dục
chính trị, từ đó làm cho mỗi người ý thức rõ hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm của
mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đánh giá kết quả công tác GDQP toàn dân, Phạm Văn Trà nêu rõ:
“Chất lượng và hiệu quả giáo dục quốc phòng cho các đối tượng được nâng
lên, tạo chuyển biến mới về nhận thức trách nhiệm của cán bộ các cấp, các
ngành và toàn thể nhân dân đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng vững
mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [169,
tr.34]. Tuy nhiên, các công trình cũng chỉ rõ, công tác GDQP toàn dân vẫn
còn có những hạn chế nhất định, như: “…cơ chế, chính sách chưa đồng bộ,
chưa đầy đủ, nên chưa huy động được mọi tổ chức, mọi người tham gia, chưa
xã hội hóa được công tác giáo dục quốc phòng” [169, tr.36].
Thứ ba, đề cập đến việc nâng cao chất lượng công tác GDQP toàn
dân, các công trình đưa ra nhiều giải pháp, trong đó tập trung: Tăng cường
năng lực tham mưu của cơ quan chỉ đạo GDQP các cấp; phát huy vai trò của
các tổ chức chính trị , xã hội trong GDQP; tiếp tục triển khai các văn bản về
GDQP; đẩy mạnh hoạt động phối hợp với các cấp, các ngành… Đề tài cấp nhà
nước “Đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia” năm
2006, do PGS, TS Lê Minh Vụ làm chủ nhiệm, đã đưa ra một số giải pháp cơ
bản để nâng cao chất lượng công tác GDQP trên các mặt: Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác giáo dục quốc
phòng; về xây dựng đội ngũ giáo viên; đổi mới mục tiêu, nội dung, chương
trình, phương pháp GDQP; về phát triển các trung tâm GDQP [167].
- Các công trình viết về công tác GDQP tại các địa phương.
Nghiên cứu về GDQP có nhiều bài viết đề cập đến công tác GDQP
tại các địa phương, tỉnh, thành phố… Đáng chú ý là các bài viết được đăng
trong cuốn “Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng an ninh trong giai