Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo tổ quốc từ năm 2001 đến năm 2011
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
®¶ng céng s¶n viÖt nam
l·nh ®¹o b¶o vÖ chñ quyÒn biÓn, ®¶o tæ quèc
tõ n¨m 2001 ®Õn n¨m 2011
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Hµ NéI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu ra trong luận án
là trung thực có nguồn gốc, xuất xứ
rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
NguyÔn §øc Ph-¬ng
DANH MỤC CÁC
TT Viết đầy đủ Viết tắt
1 Ban Chấp hành Trung ƣơng BCHTW
2 Bộ Chính trị BCT
3 Chính trị quốc gia CTQG
4 Chủ nghĩa xã hội CNXH
5 Chủ quyền biển, đảo CQBĐ
6 Chủ quyền biển, đảo Tổ quốc CQB,ĐTQ
7 Công an nhân dân CAND
8 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
9 Học viện Chính trị HVCT
10 Học viện Chính trị Quân sự HVCTQS
11 Học viện Chính trị Quốc gia HVCTQG
12 Học viện Quốc phòng HVQP
13 Kinh tế - xã hội KT-XH
14 Luận án LA
15 Nhà xuất bản Nxb
16 Quân đội Nhân dân QĐND
17 Quốc phòng – an ninh QP-AN
18 Trang Tr
19 Trung ƣơng TW
20 Tƣ bản chủ nghĩa TBCN
21 Xã hội chủ nghĩa XHCN
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 5
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 9
Chƣơng 1 CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC TỪ
NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 23
1.1. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc là yêu cầu khách
quan, cấp thiết 23
1.2. Chủ trƣơng của Đảng về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc trong những năm 2001 – 2005 41
1.3. Đảng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển,
đảo trong những năm 2001 – 2005 53
Chƣơng 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC TỪ NĂM 2006 ĐẾN
NĂM 2011 70
2.1. Những nhân tố tác động đến nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc trong những năm 2006 - 2011 70
2.2. Chủ trƣơng của Đảng về tăng cƣờng bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc trong những năm 2006 - 2011 79
2.3. Đảng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển,
đảo Tổ quốc trong những năm 2006 - 2011 88
Chƣơng 3 ĐÁNH GIÁ VÀ KINH NGHIỆM 111
3.1. Đánh giá quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển,
đảo Tổ quốc trong những năm 2001 – 2011 111
3.2. Một số kinh nghiệm 128
KẾT LUẬN 150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155
PHỤ LỤC 165
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về
Đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc từ năm 2001 đến năm 2011”, đƣợc thực hiện dƣới góc độ của khoa học
chuyên ngành Lịch sử Đảng. Đây là đề tài tập trung nghiên cứu quá trình Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc (CQB,ĐTQ) giai
đoạn 10 năm (2001- 2011). Trên cơ sở phƣơng pháp luận sử học và bằng các
phƣơng pháp chuyên ngành cụ thể nhƣ: lịch sử, logic đồng đại, lịch đại, thống kê,
tổng hợp, so sánh, chuyên gia..., đề tài luận án đã hệ thống hóa và luận giải làm rõ
chủ trƣơng, cũng nhƣ sự chỉ đạo của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ CQB,ĐTQ; đánh giá
khách quan quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ CQB,ĐTQ trong những năm 2001 -
2011, đồng thời rút ra những kinh nghiệm có ý nghĩa lịch sử và hiện thực.
Kết cấu của gồm: phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3
chƣơng (8 tiết); kết luận; danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả; danh
mục tài liệu tham khảo; phụ lục.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia ven Biển Đông, có lợi thế chiến lƣợc đặc biệt
thuận lợi về biển. Vùng biển, đảo Việt Nam với hơn 1 triệu km2 thềm lục địa,
khoảng 3000 đảo lớn, nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa, Trƣờng Sa nằm ở
giữa Biển Đông, đƣợc coi là vùng biển giàu tiềm năng, có vị trí địa kinh tế -
chính trị - quân sự vô cùng quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của Việt
Nam, mà còn đối với cả khu vực và thế giới.
Trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, nhân dân Việt Nam coi vùng biển,
đảo của Tổ quốc là địa bàn trọng yếu gắn với bƣớc đƣờng sinh tồn, phát triển
của dân tộc. Vì vậy, vấn đề khai thác kinh tế biển, đi đôi với giữ gìn, bảo vệ
CQB,ĐTQ đối với dân tộc Việt Nam luôn đƣợc đặt ra nhƣ một tất yếu.
Bƣớc vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh nguồn tài nguyên trên lục địa ngày
càng cạn kiệt, sự gia tăng dân số khiến không gian sống trở nên chật chội, các
nƣớc ven biển, kể cả những nƣớc không có biển, đều nhất loạt hƣớng về biển, hiện
thực hóa quá trình vƣơn ra biển, nhằm khẳng định ƣu thế quốc gia trong tìm kiếm,
tranh giành nguồn lợi ích to lớn trên biển.
6
Biển Đông, vốn là một vùng biển có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự giao
lƣu, phát triển của khu vực và thế giới, cho nên luôn đƣợc nhiều quốc gia quan tâm,
chú ý. Các nƣớc trong khu vực luôn đẩy mạnh, tăng cƣờng quá trình tranh chấp
CQBĐ. Một số nƣớc có tiềm lực khoa học - công nghệ, tiềm lực kinh tế, quân sự
mạnh, nhƣ: Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản… vì các tham vọng kinh tế, chính trị
riêng đã và đang tìm mọi cách can thiệp sâu vào địa bàn chiến lƣợc này, khiến cho
tình hình Biển Đông vốn phức tạp, càng trở nên phức tạp hơn. An ninh chủ quyền
biển đảo của khu vực bị đe dọa nghiêm trọng...
Tất cả các yếu tố nêu trên đã và đang tác động mạnh mẽ tới an ninh quốc gia,
cũng nhƣ tới chiến lƣợc bảo vệ CQBĐ của Việt Nam. Nhiệm vụ bảo vệ CQB,ĐTQ
trong giai đoạn hiện nay càng ngày càng khó khăn và nhiều thách thức.
Thực tiễn quá trình bảo vệ CQB,ĐTQ dƣới sự lãnh đạo của Đảng trong
hơn 20 năm đổi mới đất nƣớc, nhất là giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2011, Việt
Nam đã đạt đƣợc những thành công nhất định. Về cơ bản, CQBĐ của đất nƣớc
đƣợc giữ vững. Vấn đề kết hợp phát triển kinh tế với tăng cƣờng củng cố QP-AN
trên biển trong điều kiện mới đã có bƣớc tiến triển tốt so với thời gian trƣớc đây.
Năm 2007, với việc Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020 và trải qua gần 5 năm thực hiện chiến lƣợc đó, sức mạnh quốc gia
về biển bƣớc đầu đã đƣợc phát huy, tạo điều kiện thuận lợi bảo vệ vững chắc
CQB,ĐTQ. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục.
Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ CQB,ĐTQ trong thời kỳ đổi mới
toàn diện đất nƣớc, nhất là trong thập niên đầu tiên đầy biến động của thế kỷ
XXI, qua đó rút ra một số kinh nghiệm để vận dụng vào nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ
ở những giai đoạn tiếp theo là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và
mang tính thời sự sâu sắc và cấp thiết.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 2001 đến năm 2011”, làm đề tài
luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
:
7
-
.
* :
- Làm rõ chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo
vệ CQB,ĐTQ của Đảng trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2011.
- Đánh giá khách quan hoạt động lãnh đạo bảo vệ CQB,ĐTQ của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong 10 năm (2001 - 2011).
- Rút ra những bài học kinh nghiệm từ quá trình Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo bảo vệ CQB,ĐTQ trong những năm 2001 - 2011 dƣới góc độ
khoa học Lịch sử Đảng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
2011.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu: Sự lãnh đạo của Đảng về bảo vệ CQB,ĐTQ từ năm
20011 đến năm 2011.
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng
về bảo vệ CQB,ĐTQ; đánh giá khách quan quá trình lãnh đạo của Đảng về bảo
vệ CQB,ĐTQ và rút ra những kinh nghiệm.
- Về thời gian: Toàn bộ chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng về bảo
vệ CQB,ĐTQ từ năm 2001 đến năm 2011.
- Về không gian: Toàn bộ những vấn đề liên quan có tác động đến
nhiệm vụ bảo vệ CQB,ĐTQ trong những năm 2001 - 2011.
5.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; luật pháp
quốc tế về biển và các quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng,
Nhà nƣớc là cơ sở lý
luận để tác giả thực hiện luận án.
Trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận sử học, các phƣơng pháp: lịch sử,
logic, đồng đại, lịch đại, quy nạp, so sánh, thống kê, tổng hợp và phƣơng pháp
chuyên gia... là những phƣơng pháp đƣợc tác giả sử dụng để thực hiện đề tài.
8
6. Đóng góp mới của đề tài
-
b 2011.
-
2001 - 2011. Thông qua đ
.
-
2001 - 2011, trên cơ
.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của
Nghiên cứu về đề tài Biển Đông (bao gồm các vấn đề: kinh tế, chính trị
xã hội, QP-AN) nói chung và đề tài bảo vệ CQB,ĐTQ dƣới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam là một vấn đề có tính lý luận, thực tiễn sâu sắc.
- Luận án góp phần vào công tác tổng kết hoạt động lãnh đạo của Đảng
đối với nhiệm vụ bảo vệ CQB,ĐTQ từ năm 2001 đến năm 2011 trên nhiều vấn
đề thuộc về chủ trƣơng, đƣờng lối chỉ đạo thực hiện.
- Luận giải và làm rõ hơn các quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối, chính
sách của Đảng về bảo vệ CQB,ĐTQ trong những năm 2001 - 2011.
- Trên cơ sở đánh giá hoạt động lãnh đạo, luận án đã chỉ ra 5 kinh nghiệm.
Đây là những kinh nghiệm cần thiết góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
CQB,ĐTQ thiết thực, hiệu quả hơn.
- Luận án là cơ sơ sở tƣ liệu dùng để tham khảo phục vụ cho công tác
tuyên truyền, công tác nghiên cứu và giảng dạy một số vấn đề liên quan đến
biển, đảo ở phạm vi trong và ngoài quân đội.
Kết cấu của gồm: phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3
chƣơng (8 tiết); kết luận; danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả; danh
mục tài liệu tham khảo; phụ lục.
9
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. có liên quan đến đề tài
Các công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài, nội dung đề cập nhiều vấn đề
liên quan đến kinh tế, chính trị, QP-AN của khu vực Biển Đông nói chung và
vùng biển, đảo Việt Nam nói riêng. Trong đó, chủ yếu các công trình tập trung
luận giải mấy vấn đề chính sau:
Một là, về vấn đề tranh chấp CQBĐ giữa các quốc gia trong khu vực,
nhất là vấn đề tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Những công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề này, tiêu biểu có: “Cuộc
tranh chấp quần đảo Trường Sa: Ai là người sở hữu đầu tiên?” của Daniel -
J.Dzuck [32]; “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” của
Monique Cheminier [61]; “Phân tích về địa lý - chính trị cuộc xung đột và
tranh chấp biên giới Việt - Trung liên quan đến quần đảo Paracel và Sparaly ở
biển Nam Trung Hoa” của Peaun Medes Antunes [67]; “Các đảo tranh chấp ở
vùng biển Nam Trung Hoa, Hoàng Sa - Trường Sa - Pratas - Bãi
Maccelesfield”, công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu các vấn đề châu Á
tại Hamburg [2]; “Quần đảo Trường Sa: liệu có còn thích hợp khi tranh cãi về
vấn đề chủ quyền”, công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp
lý (trƣờng Đại học Tổng hợp Philippin) [3]; “Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa: Thử phân tích lập luận của Việt nam và Trung Quốc”
của Từ Đặng Minh Thu [78]; “Lập trường của Trung Quốc trong tranh chấp
chủ quyền trên hai hòn đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật quốc tế” của Đào
Văn Thụy [81]; “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và sự sử dụng luật quốc tế
trong tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa” của Michael Bennett [57]…
Điểm chung của các công trình nghiên cứu về tình hình Biển Đông,
nhất là về tình hình tranh chấp chủ quyền trên biển giữa các quốc gia trong
khu vực đều khẳng định: Biển Đông đang là “vùng biển nóng”, nơi hội tụ
nhiều mâu thuẫn về kinh tế, chính trị của khu vực và thế giới; tranh chấp chủ
quyền trên biển ở khu vực vừa là vấn đề của lịch sử vừa là vấn đề hiện tại
đang diễn ra hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lƣờng.
10
Trên cơ sở đánh giá thực trạng tranh chấp và nhận định cơ sở pháp lý,
lịch sử, có tính chứng cứ để khẳng định chủ quyền của các bên tranh chấp,
một số công trình đƣa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề tranh chấp, trong
đó nhấn mạnh đến giải pháp thƣơng lƣợng hoà bình.
Điều đáng lƣu ý là, nhiều công trình khi đề cập đến vấn đề chủ quyền
quốc gia ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trƣờng Sa đều nhận định: mặc dù khi tranh
chấp các bên đều đƣa ra các chứng lý của riêng mình để khẳng định chủ quyền
ở hai quần đảo này, nhƣng về mặt luật pháp, nhất là về cơ sở lịch sử, những
chứng cứ của Việt Nam đƣa ra là có tính thuyết phục nhất. Luật gia ngƣời Mỹ
Michel Bennett trong bài báo “Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và sự sử dụng
luật pháp quốc tế trong tranh chấp quần đảo Trường Sa”, từng nhận xét:
Nếu các đảo hoặc không đƣợc quản lý bởi một chính phủ, hoặc không đƣợc
thăm viếng bởi các nhân viên nhà nƣớc, vấn đề đặt ra ở đây là liệu những cuộc tiếp
xúc riêng rẽ bởi các ngƣ dân Trung Quốc có đủ thiết lập chủ quyền trên Spratlys (Trƣờng
Sa) theo luật quốc tế không. Vì vậy giá trị lập trƣờng chính thức của Trung Quốc (đƣa ra
khi tranh cãi) là đáng nghi ngại [57, tr.91- 92].
Riêng nhà nghiên cứu ngƣời Pháp, giáo sƣ Monique Chemillier Gendrau
trong công trình nghiên cứu “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa”, thẳng thắn khẳng định: “Chủ quyền ở hai quần đảo (Hoàng Sa,
Trƣờng Sa) trên Biển Đông (cũng nhƣ những yêu sách về biển của Trung Quốc
hiện nay) bộc lộ rõ tham vọng bá chủ khu vực, xa hơn nữa là bá chủ thế giới
của Trung Quốc, đe doạ trực tiếp tới an ninh khu vực và thế giới” [61, tr.83].
Tuy nhiên, có một số nhà khoa học trong các công trình nghiên cứu, do
nhiều yếu tố chủ quan (chủ yếu là xuất phát từ lập trƣờng chính trị) và khách
quan (chủ yếu xuất phát từ tính phức tạp, nhậy cảm của vấn đề, sự thay đổi
trong thực tiễn luật pháp quốc tế về biển…), dƣới góc độ này hay góc độ khác
cũng có những quan điểm khác nhau về nhiều vấn đề liên quan đến tranh chấp
CQBĐ ở khu vực Biển Đông. Thực tế cho thấy, vẫn có một số nhà nghiên
cứu, nhất là những nhà nghiên cứu thuộc các nƣớc có liên quan trực tiếp đến
vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, xuất phát từ lập trƣờng dân tộc, từ
lợi ích của quốc gia, trong các công trình hay cố gắng tìm mọi cách đƣa ra các
11
chứng lý mang tính chủ quan của mình nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia
của họ trên vùng biển, đảo đang có tranh chấp. Vì lý do đó, những công trình
của họ thƣờng thiếu tính khách quan khoa học.
Hai là, về chiến lược của một số nước lớn đối với Biển Đông và tác động
của nó tới an ninh khu vực, an ninh CQBĐ của Việt Nam.
Những công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề này, tiêu biểu có: một số công
trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài đƣợc Trung tâm Thông tin tƣ
liệu Khoa học - Công nghệ và Môi trƣờng (Bộ Quốc phòng) tập hợp lại trong tập tài
liệu có tiêu đề “Chiến lược của các nước lớn ở khu vực Đông Nam Á” [22], ví dụ
nhƣ: “Đặc điểm mới trong chính sách Đông Á của Mỹ” (Kim Xán Vinh, Chu Hán
Vũ); “Mỹ thúc đẩy chương trình đối tác cảnh vệ” ; “Chiến lược của Ấn Độ trong
việc tăng cường quan hệ với ASEAN” (Trƣơng Đảng Nặc, Kiệt Nhân Quý); “Nga
tiến vào Châu Á thông qua Inđonêxia” (Đông Phƣơng Thuần), “Trung Quốc và Ấn
Độ cạnh tranh ảnh hưởng đối với ASEAN” (Sheng Lijun); một số tham luận khoa
học tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông, đƣợc tác giả Đặng Đình Quý tập hợp trong
cuốn sách “Biển Đông - Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực” [71], ví dụ
nhƣ: “Biển Đông: Chẳng lẽ cứ thụ động ngồi chờ làn gió mát?” của Geoffrey Till;
“Tranh chấp Biển Đông sẽ đi tới đâu?” của Mark J. Valencia; “Những diễn biến
gần đây ở Biển Đông - Hệ lụy đối với hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực” của
Daniel Schaeffer; “Liệu có thể giải quyết được các tranh chấp về phân định biển
và chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông?” của Stein Tonesson; “Thực địa chính
trị của khu vực cùng tồn tại trong cái ao của Trung Quốc” của Ba Hamzah;
“Những diễn biến gần đây ở Biển Đông: Hệ lụy đối với hòa bình, ổn định và hợp
tác khu vực” của Carlyle A. Thayer; “Những biến chuyển gần đây trên Biển Đông:
lý do để quan ngại” của Ian Storey; “Cách tiếp cận quản lý các tranh chấp biên
giới của Trung quốc và Việt Nam - Bài học, liên hệ và tác động đối với tình hình
Biển Đông” của Ramses Amer; hoặc những công trình nghiên cứu khác, nhƣ:
“Chiến lược của Hải quân Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu vực Biển
Đông” của Ngô Vĩnh Long [53]; “Trung Quốc tấn công trên biển Nam Trung
Hoa” của Shigeo Hiramatsu [73]...
12
Về cơ bản các công trình nêu trên đều khẳng định: Biển Đông là vùng
biển chiến lƣợc có tác động lớn tới sự phát triển về kinh tế, QP-AN không chỉ
đối với khu vực mà còn với cả thế giới, vì thế các quốc gia trong khu vực và các
nƣớc khác, nhất là những nƣớc lớn luôn tìm cách cạnh tranh, khẳng định vị thế,
tầm ảnh hƣởng của mình ở địa bàn chiến lƣợc này; tình hình Biển Đông đã và
đang diễn biến vô cùng phức tạp bởi sự tranh chấp về lợi ích, chủ quyền giữa các
quốc gia trong khu vực và sự can thiệp của các nƣớc lớn vào địa bàn Biển Đông;
chiến lƣợc của các nƣớc lớn đối với Biển Đông một mặt góp phần tạo thế cân
bằng lực lƣợng ở khu vực nhƣng mặt khác cũng khiến cho an ninh khu vực,
trong đó có Việt Nam thêm phức tạp.
Đối với Trung Quốc, một quốc gia có những lợi ích chiến lƣợc trực tiếp ở
Biển Đông, đồng thời cũng là quốc gia hiện đang có nhiều tham vọng vƣơn lên trở
thành một cƣờng quốc mà trƣớc hết là một cƣờng quốc về biển, các nhà nghiên cho
rằng: chiến lƣợc biển của Trung Quốc, nhất là chiến lƣợc đối với Biển Đông, có tác
động rất lớn đến an ninh chủ quyền biển, đảo của các nƣớc trong khu vực. Trong
bài “Chiến lược của Hải quân Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu vực Biển
Đông”[53], nhà nghiên cứu Ngô Vĩnh Long trên cơ sở phân tích những động thái
mới của Trung Quốc trong những năm gần đây, đặc biệt là việc Trung Quốc tăng
cƣờng xây dựng một lực lƣợng hải quân hùng mạnh, đã chỉ rõ ý đồ của Trung Quốc
là muốn thao túng khu vực Biển Đông, đồng thời dùng Biển Đông nhƣ lá bài để
mặc cả với các nƣớc khác trong toan tính về kinh tế, chính trị của mình, cũng nhƣ
coi Biển Đông là bàn đạp để vƣơn ra biển xa khẳng định vị thế nƣớc lớn đối với
khu vực và thế giới. Shigeo Hiramatsu, nhà nghiên cứu Nhật Bản với bài “Trung
Quốc tấn công trên biển Nam Trung Hoa”[73], trên cơ sở đặt ra giả thiết: nếu
Trung Quốc tấn công trên biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông) thì ảnh hƣởng của
nó tới tình hình an ninh khu vực và thế giới nhƣ thế nào? Các nƣớc sẽ có đối sách ra
sao để giữ gìn sự ổn định, hoà bình ở vùng biển chiến lƣợc này? – Shigeo
Hiramatsu cho rằng: Trung Quốc có những động thái gây xung đột với các nƣớc
trong cuộc tranh giành CQBĐ vừa coi đó nhƣ một đòn răn đe, vừa tạo lợi thế thực
hiện âm mƣu về kinh tế, chính trị của mình trên trƣờng quốc tế nhƣng ít có khả
năng mở cuộc chiến tranh lớn trên Biển Đông . Bởi vì làm nhƣ thế, Trung Quốc sẽ
13
tự cô lập mình, vì phải đối đầu không chỉ với các nƣớc Đông Nam Á, nhất là các
nƣớc nằm ở Biển Đông mà còn với cả các nƣớc lớn nhƣ Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ấn
Độ. Tuy nhiên, thế giới cần phải cảnh giác với nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh
trên Biển Đông mà Trung Quốc là ngƣời châm ngòi, an ninh Đông Nam Á phụ
thuộc rất lớn vào chính sách về biển của Trung Quốc.
Đối với Mỹ, hầu hết giới quan sát và các nhà nghiên cứu đều cho rằng: vị
thế, tầm ảnh hƣởng, sự chi phối của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á nói chung
và Biển Đông nói riêng là rất lớn, không chỉ bởi Mỹ luôn coi địa bàn này là một
trong những địa bàn hết sức quan trọng trong chiến lƣợc toàn cầu của Mỹ, là nơi
Mỹ có nhiều đồng minh cần đƣợc bảo vệ, mà còn bởi Biển Đông gắn với những
lợi ích sát sƣờn của Mỹ (cả về kinh tế và chính trị). Trong bài “Đặc điểm mới
trong chính sách Đông Á của Mỹ” [22], của Kim Hán Vinh - Chu Hán Vũ, hay
bài “Mỹ thúc đẩy chương trình đối tác cảnh vệ” [22] của Robert J. Coy, đã
khẳng định rằng Mỹ đã và đang điều chỉnh chiến lƣợc của mình ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dƣơng, trong đó có Đông Nam Á, đồng thời tăng cƣờng sự có mặt
ở khu vực bằng nhiều cách thức khác nhau; an ninh khu vực, an ninh Biển Đông
cũng sẽ phụ thuộc rất lớn vào Mỹ.
Đối với Ấn Độ, trong các bài: “Chiến lược của Ấn Độ trong việc tăng
cường quan hệ với ASEAN”[22], của hai tác giả Trƣơng Đảng Nặc - Kiệt
Quý Nhân; “Trung Quốc và Ấn Độ cạnh tranh ảnh hưởng đối với
ASEAN”[22] của tác giả Sheng Lijun, hay bài “Ấn Độ tăng cường ảnh
hưởng tại Đông Nam Á” [22] của Viện Nghiên cứu và phân tích quốc phòng
Ấn Độ, đã làm rõ quyền lợi của Ấn Độ ở Đông Nam Á nói chung và Biển
Đông nói riêng. Các công trình trên cũng chỉ rõ, hiện nay Ấn Độ đang tìm
cách tăng cƣờng sự có mặt của mình và cạnh tranh với các cƣờng quốc khác
về lợi ích kinh tế, chính trị ở khu vực này.
Với nƣớc Nga, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nƣớc Nga hiện nay cũng
đang mở cuộc chạy đua với các cƣờng quốc khác vào khu vực Đông Nam Á và
Biển Đông vì lợi ích của Nga ở khu vực này là rất quan trọng. Công trình nghiên
cứu “Đông Nam Á nằm trong lợi ích của Nga” [22], của Viện nghiên cứu và phân
tích quốc phòng Ấn Độ, hay bài “Nga tiến vào châu Á thông qua Inđônêxia” [22],
14
của nhà nghiên cứu Đông Phƣơng Thuần, phân tích lợi ích của Nga ở khu vực,
đồng thời chỉ rõ nỗ lực cũng nhƣ sự điều chỉnh chiến lƣợc trong quá trình khẳng
định ảnh hƣởng của Nga ở Đông Nam Á và trên địa bàn Biển Đông.
Đối với Nhật Bản, cuốn “Chính sách ngoại giao của Nhật Bản đối với
ASEAN trong thế kỷ mới” do nhà xuất bản Nhân dân (Trung Quốc), trên cơ sở
phân tích tổng quan chính sách ngoại giao của Nhật Bản với các nƣớc ASEAN,
cuốn sách nhận định: một trong những ý đồ chiến lƣợc trong chính sách ngoại
giao của Nhật Bản đối với ASEAN, bao gồm cả chính sách với Biển Đông chính
là cạnh tranh với các nƣớc khác, đặc biệt là với Mỹ và Trung Quốc tạo cơ sở
khẳng định vị thế nƣớc lớn về chính trị ở khu vực; việc can thiệp vào Biển Đông
không chỉ thuần tuý về mặt kinh tế bởi một lƣợng lớn hàng hoá của Nhật Bản
đƣợc vận chuyển qua Biển Đông, khai thác các nguồn lợi kinh tế ở Biển Đông
mà còn kiềm chế các cƣờng quốc tạo lợi thế cạnh tranh về mọi mặt của Nhật Bản
trên trƣờng quốc tế.
2. nghiên cứu ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu luận giải những vấn đề
chính cốt sau:
Một là, vị trí, vai trò của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Hầu hết các công trình nghiên cứu khi đề cập đến vấn đề này đều thống nhất
khẳng định rằng: Việt Nam là quốc gia có vị trí chiến lƣợc đặc biệt thuận lợi về
biển; với một vùng biển rộng lớn giàu tiềm năng, bao gồm hơn 1 triệu km2 thềm
lục địa, hơn 3000 hòn đảo, nhiều vịnh biển có giá trị kinh tế, QP-AN, vùng biển,
đảo Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình xây dựng, bảo vệ đất
nƣớc và sự trƣờng tồn của dân tộc; cần nâng cao ý thức của dân tộc về vị trí, vai trò
to lớn của biển, đảo, triệt để phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của biển, đảo để phát
triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong công trình “Việt Nam đất, biển, trời” của tác giả Lƣu Văn Lợi[54],
trên cơ sở phân tích vị trí, vai trò của biển, đảo nƣớc ta, nhà nghiên cứu Lƣu Văn
Lợi nhấn mạnh:
15
Biển đối với quốc gia là an ninh và phát triển, đối với hàng chục triệu con
ngƣời thuộc hơn nửa các tỉnh, thành, đặc khu (của Việt Nam) là đời sống và phồn
vinh, biển không thể tiếp tục bị coi nhẹ nhƣ hiện nay và chỉ hiểu là biển ven bờ.
Biển hiểu theo ý nghĩa đầy đủ của nó phải là một trong hai vế của chiến lƣợc bảo vệ
và xây dựng đất nƣớc để đƣa dân tộc thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu.[54, tr.185].
Trong công trình “Biển và hải đảo Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung
ƣơng ấn hành [6], các tác giả khẳng định:
Việt Nam là một quốc gia ven biển có những ƣu thế và vị trí chiến lƣợc
đặc biệt đối với khu vực và trên thế giới. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng
nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc, biển luôn gắn liền với quá trình dựng xây và
phát triển của đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam. Việc xây dựng, quản lý, phát
triển và bảo vệ quyền lợi biển là vấn đề có ý nghĩa chiến lƣợc đối với việc giữ
gìn toàn vẹn chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh
tế- xã hội của đất nƣớc trong thời kỳ mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập
quốc tế [6, tr3].
Hai là, chủ quyền của Việt Nam trên biển, đặc biệt là chủ quyền lãnh thổ
của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Chủ quyền của Việt Nam trên biển, đặc biệt là đối với hai quần đảo
Hoàng Sa, Trƣờng Sa, là vấn đề lớn đƣợc rất nhiều nhà khoa học cũng nhƣ các
nhà hoạt động chính trị quan tâm. Đã có nhiều công trình đề cập trực tiếp đến
vấn đề này dƣới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, trong đó có những công
trình tập trung đi sâu luận giải về chủ quyền của Việt Nam trên biển, nhƣ các
công trình: “Vùng biển và quyền làm chủ” của Vũ Phi [66]; “Việt Nam đất,
biển, trời” của Lƣu Văn Lợi [54]; “Biển và hải đảo Việt Nam” [6]; “Chiến lược
bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển Việt Nam đến
năm 2020”, đề tài nghiên cứu cấp nhà nƣớc của Viện Nghiên cứu và Phát triển
[17]; “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa”[64], luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Nhã.