Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đặc điểm ngôn ngữ trong giao tiếp ở Trường Đại học Quân sự Việt Nam (trên ngữ liệu thi vấn đáp)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
------------------
NGUYỄN THỊ DUNG
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG GIAO TIẾP
Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60.22.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ
Người hướng dẫn khoa học : GS. TS. Lý Toàn Thắng
Thái Nguyên, năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
đang đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ sĩ quan Quân đội phải có phẩm chất,
năng lực toàn diện, trong đó việc rèn luyện khả năng giao tiếp tốt đạt hiệu quả cao
trong học tập và công tác là một vấn đề đặc biệt được các Học viện, Nhà trường
Quân đội hết sức quan tâm.
Giáo dục trong nhà trường có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
con người. Đặc biệt là trong Quân đội thì Trường Đại học Quân sự (ĐHQS) là môi
trường giáo dục, rèn luyện tốt nhất đối với Quân nhân, một trong số đó là Trường
Đại học Trần Quốc Tuấn (Trường Sĩ quan Lục quân 1).
Trường Đại học Trần Quốc Tuấn với mục tiêu đào tạo những thanh niên,
quân nhân có đủ tiêu chuẩn qui định, trở thành sĩ quan chỉ huy - Tham mưu Lục quân
cấp phân đội, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ đại
học, năng lực toàn diện về chỉ huy, lãnh đạo, quản lý và huấn luyện bộ đội, có thể lực
tốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Học viên của Trường tốt nghiệp được cấp bằng cử nhân quân sự ngành chỉ
huy - Tham mưu Lục quân, đảm nhiệm chức vụ ban đầu là trung đội trưởng, phát
triển lên đại đội trưởng và các chức vụ tương đương, có tiềm năng phát triển lâu dài.
Để trở thành người sĩ quan chỉ huy tương lai trong quá trình học tập, rèn
luyện tại Trường, HV được huấn luyện nhiều nội dung. Đặc biệt việc rèn luyện khả
năng giao tiếp cho HV luôn được đội ngũ GV nhà trường chú trọng bồi dưỡng trong
công tác giảng dạy và hỏi thi vấn đáp.
Trong Trường Đại học Quân sự (ĐHQS) nói chung hoạt động giao tiếp giữa
GV và HV mang tính đặc thù. Trong giao tiếp, các vai giao tiếp được xác định rõ
ràng; sự xưng hô phải tuân theo cấp bậc, chức vụ; ngôn ngữ sử dụng là ngôn ngữ
hành chính quân sự. Đối với HV, thì GV có nhiều tư cách khác nhau: vừa là người
thầy, người lãnh đạo, đồng thời vừa là người đồng chí, đồng đội của người học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
Nói riêng về hoạt động giao tiếp giữa GV và HV trong thi vấn đáp ở
Trường ĐHQS Việt Nam thì tuy đây cũng là một kiểu loại giao tiếp (nó cũng có cấu
trúc, chức năng như hoạt động giao tiếp thông thường ) nhưng bên cạnh đó nó cũng
chứa đựng nhiều nét khác biệt. Đó là những hành động nói năng trong giao tiếp
được Điều lệnh hóa, theo chuẩn mực Quân sự nhất định.
Khảo sát về hoạt động giao tiếp giữa GV và HV ở Trường ĐHQS Việt Nam
nói chung và cụ thể trong thi vấn đáp nói riêng, đang là một vấn đề, một đề tài
nghiên cứu có tính cấp thiết liên quan đến mục tiêu, nhiệm vụ nâng cao khả năng
giao tiếp cho HV.
Về phương diện lý luận, đề tài này có liên quan mật thiết với các nội dung
nghiên cứu của Ngữ dụng học, đặc biệt là các vấn đề về hội thoại có vị trí rất quan
trọng vì nó chính là nội dung phản ánh vai trò của ngôn ngữ trong thực tế giao tiếp
giữa GV và HV trong thi vấn đáp.
Bước sang thế kỷ XXI, ở Việt Nam ngành Ngôn ngữ học nói chung và
ngành Việt ngữ học nói riêng ngày càng quan tâm đến vấn đề như sự hành chức
của ngôn ngữ trong các hoạt động xã hội, văn bản, phát ngôn, các vấn đề tương tác
trong hội thoại, mối tương quan giữa phương tiện giao tiếp bằng ngôn từ và phi
ngôn từ, hiệu quả lời nói trong nghi thức giao tiếp trong những hoàn cảnh giao tiếp
khác nhau.
Trong thời gian qua có một số tác giả đã vận dụng lý thuyết Ngữ dụng học
vào việc nghiên cứu ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp khác nhau. Tuy nhiên,
chưa có tác giả nào vận dụng lý thuyết Ngữ dụng học vào việc tìm hiểu và nghiên
cứu hội thoại trong thi vấn đáp ở Trường ĐHQS Việt Nam.
Bản thân tôi có niềm yêu thích Ngôn ngữ học nói chung và Ngữ dụng học
nói riêng, luôn có ước muốn tìm hiểu sâu hơn về lĩnh vực này nhằm phục vụ cho
việc học tập, rèn luyện và giảng dạy trong môi trường Quân đội.
Vì những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn "Đặc điểm ngôn ngữ trong giao
tiếp ở Trường ĐHQS Việt Nam (trên ngữ liệu thi vấn đáp)" để làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
2. Lịch sử vấn đề
Quân đội Nhân dân Việt Nam cho đến hôm nay đã kinh qua gần bảy mươi
năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Nói đến
Quân đội nhân dân Việt Nam, người ta nghĩ ngay đến các vị tướng lĩnh tài ba, đến
những chiến công hiển hách, về hình ảnh anh "bộ đội Cụ Hồ" và "Nghệ thuật chiến
tranh nhân dân...". Vì vậy các đề tài nghiên cứu về lịch sử Quân sự Việt Nam, hay
lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam rất đa dạng và phong phú.
Bên cạnh đó, mảng đề tài về khoa học ngôn ngữ Quân sự cũng nhận được
quan tâm của nhiều tác giả. Theo tìm hiểu của chúng tôi, mảng đề tài này có một số
công trình nghiên cứu cụ thể như sau:
- Hệ thuật ngữ Quân sự tiếng Việt (Luận án PTS Ngữ văn chuyên ngành ngôn
ngữ các dân tộc Việt Nam; Hà Nội 1994 của tác giả Vũ Quang Hào).
- Từ điển thuật ngữ Quân sự Việt Nam, NXB. Quân đội nhân dân Việt Nam,
năm 1997.
- Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, NXB. Quân đội nhân dân Việt
Nam, năm 2004.
Đặc biệt về góc độ giao tiếp có công trình khoa học "Giao tiếp của bác sỹ
Quân y với người bệnh" của tác giả T.S Nguyễn Thị Thanh Hà, Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2003. Tuy nhiên công trình này chỉ đề cập đến mảng giao tiếp riêng ở
lĩnh vực Quân y.
Mới đây trên số báo Quân đội nhân dân Việt Nam ra ngày 20/12/2010 có bài
viết của tác giả Sơn Hà với tựa đề "Kỹ năng giao tiếp mở ra cơ hội". Qua bài viết,
tác giả Sơn Hà muốn nêu lên thực trạng nhiều sĩ quan trẻ học tập, rèn luyện trong
môi trường Quân đội tuy có kết quả học tập, rèn luyện tốt, nhưng những sĩ quan trẻ
này lại có hạn chế là chưa thực sự tự tin trong giao tiếp.
Cũng trong số báo này có ý kiến của tác giả Đinh Thị Thủy Bình về vấn đề:
"Văn hóa chào hỏi nét đẹp của người quân nhân". Tác giả cho rằng: "Trong môi
trường quân đội, việc chào hỏi giữa các quân nhân không chỉ là thực hiện điều lệnh
mà còn thể hiện tinh thần đồng chí, đồng đội, sự tôn trọng lẫn nhau, đồng thời là nét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
đẹp văn hóa của người quân nhân cách mạng. Chào hỏi như thế nào, để vừa đúng
điều lệnh, vừa có văn hóa, đòi hỏi mỗi quân nhân phải có ý thức, hiểu biết và hình
thành cho mình thói quen. Nguyên tắc chung của việc chào hỏi là: Quân nhân gặp
nhau phải chào, cấp dưới phải chào cấp trên trước, người được chào phải chào đáp
lễ...".
Qua những ý kiến trên, chúng tôi càng nhận thức rõ hơn về tính cấp bách của
đề tài luận văn của mình là: chưa có tác giả nào đi vào tìm hiểu, nghiên cứu về "Đặc
điểm ngôn ngữ trong giao tiếp ở Trường ĐHQS Việt Nam" mà cụ thể là về hội
thoại trong thi vấn đáp ở Trường ĐHQS Việt Nam,
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc khảo sát và tìm hiểu 54 hội thoại trong thi vấn đáp ở một số
phương diện và khía cạnh, luận văn nhằm chỉ ra đặc điểm và vai trò của hội thoại
trong thi vấn đáp ở Trường ĐHQS Việt Nam dưới ánh sáng của Ngữ dụng học. Từ
đó luận văn góp phần khẳng định những nét đặc thù ngôn ngữ sử dụng trong giao
tiếp ở Trường ĐHQS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý thuyết về Ngữ dụng học, đặc biệt là về hội thoại với các
khái niệm hội thoại, cấu trúc hội thoại, qui tắc hội thoại, v.v. làm điểm tựa cho việc
tìm hiểu hội thoại trong thi vấn đáp.
- Dựa trên cơ sở lý thuyết này, chúng tôi tiến hành khảo sát, thu thập và xử
lý tư liệu về hội thoại trong thi vấn đáp.
- Miêu tả những đặc điểm cơ bản của hội thoại (như hình thức hội thoại, cấu
trúc cuộc thoại, tính chất đoạn thoại, v.v.), vai trò của hội thoại với việc thể hiện
chủ đề và tính giao tiếp.
- Góp phần định ra phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng ngôn ngữ trong thi vấn đáp nói riêng và trong giao tiếp ở môi trường Quân đội
nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là 54 cuộc thoại giữa GV và HV Trường Đại
học Trần Quốc Tuấn (Trường Sĩ quan Lục quân 1) với 9 môn học:
1. Điều lệnh đội ngũ (Cuộc thoại 1 đến 10)
2. Điều lệnh Quản lý bộ đội (Cuộc thoại 11 đến 13)
3. Võ thuật và Đâm lê (Cuộc thoại 14 đến 22)
4. Lý thuyết bắn súng (Cuộc thoại 23 đến 31)
5. Chiến thuật (Cuộc thoại 32 đến 36)
6. Tâm lý và giáo dục học Quân sự (Cuộc thoại 37 đến 45)
7. Kỹ thuật hỏa khí (Cuộc thoại 46 đến 48)
8. Công tác đảng công tác chính trị (Cuộc thoại 49 đến 51)
9. Tin học (Cuộc thoại 52 đến 54)
Các đối tượng HV được chúng tôi tiến hành khảo sát là HV các năm từ năm
thứ nhất đến năm cuối của Trường .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Có thể nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ trong giao tiếp ở Trường ĐHQS Việt
Nam dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, chúng
tôi tập trung tìm hiểu nghiên cứu đặc điểm hội thoại trong thi vấn đáp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp miêu tả (với hai thủ pháp chính là phân tích và tổng hợp).
Phương pháp này được sử dụng để miêu tả các cấu trúc hội thoại, hình thức
hội thoại, vai trò của hội thoại với việc thể hiện chủ đề trong thi vấn đáp.
- Phương pháp thống kê, phân loại.
Phương pháp này vận dụng vào việc tính đếm tần số xuất hiện và phân loại
cấu trúc hội thoại, các kiểu quan hệ của nó .v.v. làm cơ sở phân tích, nhận xét các
đặc điểm của hội thoại, đánh giá vai trò của hội thoại trong thi vấn đáp.
- Phương pháp điền dã: Phương pháp này được vận dụng khi đi khảo sát
thực tế thu thập tư liệu làm cơ sở dữ liệu cho luận văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
Áp dụng các tri thức về Ngữ dụng học nói chung, về hội thoại nói riêng, dựa
trên ngữ liệu thi vấn đáp, luận văn có thể làm sáng tỏ hơn một số đặc điểm ngôn
ngữ trong giao tiếp nói chung và hội thoại nói riêng ở môi trường ngôn ngữ ĐHQS
Việt Nam
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đặt ra phương hướng và biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ trong thi vấn đáp nói riêng và trong giao
tiếp ở môi trường Quân đội nói chung.
6.2. Về thực tiễn
Qua kết quả nghiên cứu, luận văn sẽ giúp độc giả hiểu rõ hơn về tính đặc thù
vô cùng thú vị của ngôn ngữ trong giao tiếp ở Trường ĐHQS Việt Nam. Đồng thời,
dựa trên kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi cũng mong muốn rằng có thể
chia sẻ với cán bộ, GV, HV trong các Học viện, Nhà trường Quân đội một số kinh
nghiệm thực tiễn giúp cho hoạt động giao tiếp nói chung và giao tiếp trong thi vấn
đáp nói riêng đạt hiệu quả như mong muốn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn gồm ba
chương.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tế
Chương 2: Đặc điểm của ngôn ngữ hội thoại trong thi vấn đáp
Chương 3: Thăm dò ý kiến về việc sử dụng từ ngữ trong thi vấn đáp ở
trường ĐHQS Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TẾ
1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp (Communication) là sự tiếp xúc giữa các cá thể trong một
cộng đồng để truyền đạt một thông tin nào đó. Đối với xã hội loài người có
thể giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện, trong đó phương tiện ngôn
ngữ (bao gồm cả ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết) là phương tiện quan trọng
nhất. Giao tiếp bằng ngôn ngữ là đối tượng thu hút sự chú ý của các nhà
nghiên cứu với những mối quan tâm khác nhau. Theo Beger 1994 [2, tr.164]
giao tiếp được hiểu theo một số cách như sau:
Hiểu theo cách đơn giản và chung nhất, giao tiếp là quá trình thông tin
diễn ra giữa ít nhất là hai người giao tiếp trao đổi với nhau, gắn với một ngữ
cảnh và một tình huống nhất định. Cách định nghĩa này phù hợp với các cuộc
trao đổi bằng lời trong cuộc sống thường nhật của con người, do đó nó liên
quan tới xã hội học.
Theo cách hiểu có tính chuyên môn giao tiếp được định nghĩa như một
thuật ngữ chỉ loại, bao gồm tất cả những thông điệp được phát ra trong những
ngữ cảnh và tình huống khác nhau. Theo cách hiểu này, giao tiếp là cách gọi
chung cho tất cả các hành động ngôn ngữ trong xã hội.
Theo một cách định nghĩa khác, khái niệm giao tiếp được giải thích
thông qua tính từ “thuộc về giao tiếp” hay “có tính giao tiếp”. Một tín hiệu có
tính giao tiếp nếu nó nhằm báo cho người nhận về một cái gì đó mà cho đến
lúc bây giờ người đó chưa biết. Như vậy, giao tiếp được xem xét có sự phân
biệt trong quan hệ một bên là người phát (người nói, người viết) với những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
chủ định nhất định, một bên là người nhận (người nghe, người đọc) với những
giá trị nhất định.
Căn cứ theo những cách hiểu vừa trình bày trên, thì ngôn ngữ giao tiếp
giữa giáo viên và học viên trong thi vấn đáp ở Trường ĐHQS Việt Nam
không phải là “ngôn ngữ trao đổi bằng lời trong cuộc sống thường nhật” cũng
không mang “tính chất đại diện chung” cho tất cả các hành động ngôn ngữ
trong xã hội. Mặt khác nội dung thông tin giao tiếp trong thi vấn đáp không
hoàn toàn là “một cái gì đó” mà người nhận chưa biết.
Ở đây giao tiếp ngôn ngữ trong thi vấn đáp được nhìn nhận như là
những cái vốn có trong các bình diện nội dung và bình diện biểu hiện (hình
thức) của các thông điệp bằng ngôn ngữ, giáo viên và học viên trao đổi lời
(nói) với nhau, hướng đến mục đích mà cả hai cùng quan tâm.
Với quan niệm như vậy, trong luận văn này chúng tôi tạm thời đưa ra
một định nghĩa để làm việc về khái niệm giao tiếp như sau: giao tiếp được
hiểu là sự trao đổi thông tin qua lại bằng lời nói giữa ít nhất hai người với
những thông điệp bằng ngôn ngữ trong một ngữ cảnh nhất định. Nhờ có giao
tiếp bằng ngôn ngữ mà con người có thể thuận lợi trao đổi thông tin, bày tỏ
quan điểm, cảm xúc, thiết lập hoặc gỡ bỏ những sợi dây liên hệ tình cảm.
Nói cụ thể hơn vào giao tiếp trong mối trường quân đội và trong thi
vấn đáp ở Trường ĐHQS thì chúng ta cần thấy thêm rằng sự trao đổi thông
tin qua lại bằng lời nói giữa học viên và giáo viên ở đây còn có những nét đặc
thù riêng khác với giao tiếp thông thường như: ngôn ngữ có tính điều lệnh
hóa cao hơn, quy trình bài bản hơn, ngôn từ lựa chọn chuẩn mực hơn.
Về phương diện lý thuyết chung, từ lâu các nhà ngôn ngữ học đã xác
định được tầm quan trọng hàng đầu của chức năng giao tiếp đối với ngôn ngữ,
và trong quá trình giao tiếp - theo các nhà phân tích diễn ngôn - ngôn ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
thực hiện hai chức năng cơ bản là chức năng giao dịch và chức năng liên
nhân. Chức năng giao dịch (hay còn gọi là chức năng biểu hiện, quy chiếu,
quan niệm, miêu tả) là “mệnh đề”. Chức năng liên nhân (hay còn được gọi là
chức năng tương tác, hoặc bộc lộ, hoặc bộc lộ - xã hội) là chức năng của ngôn
ngữ được dùng trong việc diễn đạt các quan hệ xã hội và thái độ của cá nhân
(7, tr. 21).
1.2. Lý thuyết hội thoại
Có thể nói rằng thi vấn đáp ở Trường ĐHQS về bản chất là một cuộc
hội thoại giữa giảng viên và học viên, cho nên chúng ta cần tìm hiểu sâu về lí
thuyết hội thoại dưới đây.
1.2.1. Khái niệm hội thoại
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Trong thực tiễn, giao tiếp ngôn
ngữ được thể hiện dưới hai dạng cơ bản là hội thoại và độc thoại. Theo cách
hiểu thông thường, giản đơn thì hội thoại nghĩa là hai hay nhiều người nói
chuyện với nhau, tác động đến nhau bằng lời.
Hội thoại, từ khi trở thành đối tượng của Ngữ dụng học, đã được nhiều
tác giả như C.K. Orecchioni, H.P.Goice, G.Leach, D. Wilson, ... quan tâm tìm
hiểu và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Theo GS. Đỗ Hữu Châu, “Hội
thoại” là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, và cũng
là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác”. [3, 201] Chức năng làm
môi trường sống của ngôn ngữ của hội thoại đã được nhà lý luận ngôn ngữ Xô
Viết M. Bakhtin nhấn mạnh: “Đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của
cuộc sống con người… Sống tức là tham gia và đối thoại: hỏi, nghe, trả lời,
đồng ý… Con người tham gia vào cuộc đối thoại ấy bằng toàn bộ con người
mình và toàn bộ cuộc đời mình: bằng mắt, tay, tâm hồn, tinh thần và hành vi.
Nó trút hết con người vào lời nói và tiếng nói của nó gia nhập dàn đối thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
của cuộc sống con người, gia nhập cuộc hội thảo thế giới… Bản ngã không
chết, cái chết chỉ là sự ra đi. Con người ra đi khi đã nói lời của mình, nhưng
bản thân lời nói ấy còn lại mãi mãi trong cuộc thoại không bao giờ kết thúc…
Đối thoại là một phương diện của tồn tại con người, nó cho thấy có cả một bộ
mặt tự nhiên sinh động của hiện thực”. [32,tr. 11]
Một cuộc hội thoại sẽ chịu sự chi phối của các yếu tố sau:
- Thoại trường: Thoại trường chính là hoàn cảnh không gian, thời
gian nơi diễn ra cuộc thoại. Thoại trường có thể mang tính công cộng, ví dụ
như trong cuộc họp, buổi hội thảo, trên giảng đường, trong lớp học…
Thoại trường cũng có thể mang tính riêng tư, ví dụ như trong nhà bếp,
phòng ngủ… Không chỉ có không gian, thời gian mà khả năng có mặt của
những người mới tham gia vào cuộc thoại đang diễn ra cũng được xem là
đặc điểm của thoại trường. Một cuộc đối thoại mang tính riêng tư, ví dụ
như đôi trai gái đang yêu nhau, sẽ thay đổi ít nhiều về nội dung, cách thức
khi có mặt thêm ngưòi thứ ba, dù sự xuất hiện đó là khách quan và người
thứ ba kia không hề xen vào cuộc thoại. [3]
- Thoại nhân: Thoại nhân là những người tham gia vào cuộc thoại.
Trước hết, các cuộc thoại khác nhau ở số lượng người tham gia. Căn cứ theo
tiêu chí này, các nhà nghiên cứu đã chia hội thoại thành các dạng: song thoại
(cuộc thoại gồm hai thoại nhân), tam thoại (cuộc thoại gồm ba thoại nhân) và
đa thoại (cuộc thoại gồm ba thoại nhân trở lên), trong đó, song thoại là dạng
cơ bản, phổ biến nhất. Không chỉ số lượng mà cương vị và tư cách của thoại
nhân, ví dụ như tính chủ động hay bị động của các đối tác (đối ngôn), cũng
ảnh hưởng rất lớn đến các cuộc thoại. [3]
- Đích giao tiếp: Đích giao tiếp là mục tiêu cần đạt đến trong mỗi cuộc
thoại. Có cuộc thoại đích rõ ràng, được xác định từ trước khi diễn ra hội thoại
(ví dụ như hội thảo khoa học, thương thuyết ngoại giao…). Ngược lại,cũng có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
nhũng cuộc thoại lan man, không xác định trước đích hoặc đích không rõ (ví
dụ như các cuộc tán gẫu, nói chuyện phiếm…) [3]
- Hình thức cuộc thoại: các cuộc thoại còn khác nhau ở chỗ có hay
không có hình thức cố định, chặt chẽ, mang tính nghi lễ. Trong khi đó, các
cuộc trò chuyện trong đời thường sẽ không bị bó buộc bởi bất kỳ nghi lễ, hình
thức nào. [3]
1.2.2. Vận động hội thoại
Hội thoại là một vận động bằng ngôn ngữ, là cách các thoại nhân sử
dụng các yếu tố ngôn ngữ để tác động qua lại lẫn nhau, nhằm đạt được mục
đích nhất định. Bất cứ một cuộc thoại nào cũng gồm ba vận động: trao lời, trao
đáp và tương tác. Trong đó hai vận động trao lời và trao đáp là do từng thoại
nhân thực hiện và phối hợp với nhau tạo thành vận động thứ ba – tương tác.
Trao lời là hoạt động của người phát (kí hiệu SP1) tạo ra diễn ngôn và
hướng diễn ngôn của mình đến người nhận (kí hiệu SP2) .
Trao đáp là quá trình người nhận chuyển thành vai người phát đáp lại
lời thoại.
Sự thay đổi luân phiên vai người phát – nhận giữa các thoại nhân làm
nên hoạt động trao – đáp trong hội thoại. Qua hoạt động này, thoại nhân thông
qua diễn ngôn và các biểu hiện phi ngôn ngữ của mình để tác động qua lại lẫn
nhau, làm thay đổi nhau. Hoạt động tác động qua lại lẫn nhau của các nhân
vật trong giao tiếp chính là sự tương tác trong hội thoại.
Chính nhờ sự tương tác mà hội thoại trở thành hoạt động giao tiếp đặc
biệt thú vị và hấp dẫn của con người, trong đó “mỗi nhân vật tương tác là
những nhạc công trong bản giao hưởng vô hình mà phần nhạc họ chơi không
đựơc biên soạn từ trước, mỗi người tự soạn ra trong diễn tiến của cuộc hoà
nhạc, một cuộc hoà nhạc không có nhạc trưởng”. [3,tr.219]
1.2.3. Quy tắc hội thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
Để hội thoại thành công, các thoại nhân bắt buộc phải tuân theo một số
quy tắc nhất định. Qua nghiên cứu thực tế, K. Orecchioni đã hệ thống các quy
tắc thành ba nhóm như sau:
- Các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời
- Các quy tắc chi phối cấu trúc hội thoại
- Các quy tắc chi phối quan hệ liên nhân trong hội thoại
Cụ thể như sau:
1.2.3.1. Quy tắc luân phiên lượt lời
Mỗi lần SP1 hay SP2 nói là một lượt lời. Các lượt lời có thể được một
người điều chỉnh hoặc do các thoại nhân tự thương lượng ngầm với nhau. Khi
tham gia hội thoại, các thoại nhân phải ý thức rõ ràng về vai trò nói và nghe
của nhau. Để tiến trình hội thoại không bị gián đoạn, giao tiếp thuận lợi, mỗi
thoại nhân phải tuân thủ các quy tắc sau:
Vai nói thường xuyên thay đổi nhau trong một cuộc thoại.
Mỗi lần chỉ một người nói.
Lượt lời của mỗi người thường thay đổi về độ dài, do đó cần có những
biện pháp để nhận biết khi nào một lượt lời chấm dứt.
Vị trí ở đó nhiều người cùng nói một lúc tuy thường gặp nhưng không
bao giờ kéo dài.
Nhường lời cho người hội thoại với mình, không được cướp lời người
khác khi người đó chưa kết thúc.
Nối tiếp lời của người tham gia hội thoại kịp thời, tránh không được để
khoảng yên lặng giữa các lượt lời quá dài.
Trật tự của người nói không cố định, ngược lại luôn thay đổi.
1.2.3.2. Quy tắc điều hành nội dung hội thoại
Các quy tắc điều hành nội dung hội thoại chính là các quy tắc điều hành
quan hệ giữa nội dung của các lượt lời tạo nên cuộc hội thoại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
(i) Nguyên tắc cộng tác hội thoại:
Nguyên tắc này được Grice nêu ra năm 1967, được thể hiện qua 4
phương châm:
- Phương châm về lượng:
Hãy làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin đáp ứng đủ như đòi
hỏi của đích hội thoại.
Đừng làm cho phần đóng góp của anh có lượng tin lớn hơn đòi hỏi.
- Phương châm về chất:
Hãy làm cho những đóng góp của anh là đúng, đừng nói những điều mà
anh tin rằng không đúng.
Đừng nói những điều mà anh không đủ bằng chứng xác thực.
- Phương châm quan hệ:
Hãy làm cho phần đóng góp của anh có liên quan đến vấn đề đang đề ra.
- Phương châm cách thức:
Hãy nói rõ ràng
Tránh lời nói tối nghĩa, mập mờ
Hãy nói ngắn gọn
Hãy nói có trật tự.
(ii) Nguyên tắc quan yếu:
Theo Wilson và Sperber, một phát ngôn chỉ quan yếu khi nó có hiệu
lực nào đó với ngữ cảnh và trong những điều kiện giống nhau, hiệu lực với
ngữ cảnh càng cao thì tính quan yếu của phát ngôn càng lớn. Từ nền tảng đó,
K.Orecchioni đã tìm ra bốn phương diện mà phát ngôn có thể quan yếu: quan
yếu về ngữ dụng, quan yếu về lập luận, quan yếu về hứng thú và quan yếu về
đề tài. Một phát ngôn được xem là quan yếu về ngữ dụng khi nó có hệ quả với
hành động, cách cư xử của những người tham gia hội thoại; quan yếu về lập
luận khi nó làm cơ sở để người nghe rút ra những suy ý làm thay đổi hiểu biết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
hay tín điều của người nghe, quan yếu về hứng thú khi thu hút được sự quan
tâm của người nghe, quan yếu về đề tài khi nó có quan hệ với nhau và cùng
quan hệ với đề tài của cuộc hội thoại mà nó tham gia vào.
Để cuộc hội thoại thành công các thoại nhân luôn phải tác động, ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau. Một trong những khía cạnh của sự ảnh hưởng đó là
thương lượng hội thoại. Thương lượng hội thoại thể hiện ở các bình diện sau:
- Về phương diện hình thức hội thoại, các thoại nhân thỏa thuận với
nhau về ngôn ngữ được dùng.
- Về cấu trúc hội thoại, các thoại nhân thương lượng về sự mở đầu, kết
thúc và lượt lời của các nhân vật.
- Về nội dung hội thoại, các thoại nhân thương lượng với nhau về vấn
đề đưa ra hội thoại.
- Về thời gian, thương lượng hội thoại có thể diễn ra từ đầu, trong quá
trình hội thoại hoặc trong một số trường hợp cá biệt, thương lượng hội thoại
có thể diễn ra trước khi cuộc hội thoại bắt đầu.
- Về cách thức, thương lượng hội thoại có thể diễn ra một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp.
1.2.3.3. Quy tắc chi phối quan hệ liên nhân trong hội thoại
Khi tham gia vào một cuộc hội thoại, ngoài các quy tắc ngôn ngữ, thoại
nhân cần phải tuân thủ những quy ước của xã hội như quy tắc thẩm mĩ, quy
tắc đạo đức, quy tắc lịch sự…
“Lịch sự”, theo cách hiểu thông thường, là cách giao tiếp đúng mực, theo
khuôn phép, khiến cho người giao tiếp với mình hài lòng. Từ góc độ ngữ dụng
học, lịch sự còn được xem xét với thể diện để đảm bảo tính toàn vẹn và đầy đủ.
Phép lịch sự là tổng thể những cách thức mà thoại nhân dùng để giữ gìn thể diện
cho nhau.
Lịch sự gồm hai bình diện: