Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

ứng dụng phân tích cơ bản trong hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán ngân hàng đông nam á
MIỄN PHÍ
Số trang
58
Kích thước
406.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1365

ứng dụng phân tích cơ bản trong hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán ngân hàng đông nam á

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

MỞ ĐẦU

Kể từ ngày chính thức giao dịch đầu tiên ngày 20/7/2000 đến nay đã gần

7 năm Thị trường chứng khoán đi vào vận hành và phát triển. 7 năm với biết

bao thăng trầm, từ những ngày đầu thành lập với vỏn vẹn vài ba công ty niêm

yết, vài công ty chứng khoán, mà hiện Thị trường chứng khoán Việt Nam đã

có những bước phát triển đáng kinh ngạc - với 107 mã chứng khoán niêm yết

trên TTGDCK Hồ Chí Minh và 86 mã chứng khoán niêm yết trên TTGDCK

Hà Nội, trên 50 Công ty chứng khoán được cấp phép và đi vào hoạt động.

Lượng tiền của cả nhà đầu tư cá nhân, tổ chức và các định chế tài chính khác

đổ vào thị trường ngày càng nhiều, tính đến thời điểm này, giá trị vốn hoá của

thị trường lên đến 24.4 tỷ USD, chiếm trên 30% GDP. Thị trường chứng

khoán ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của nó trong việc huy động, thu

hút nguồn vốn trong và ngoài nước cho sự phát triển kinh tế đất nước.

Là một định chế tài chính trung gian trên Thị trường chứng khoán, ngoài

các nghiệp vụ hỗ trợ nhà đầu tư và thị trường, Công ty chứng khoán còn thực

hiện nghiệp vụ tự doanh, tự kinh doanh chứng khoán bằng nguồn vốn của

mình. Đây là nghiệp vụ đem lại doanh lợi lớn nhất cho các Công ty chứng

khoán, và cũng giống như các thành viên thị trường khác, công ty chứng

khoán sẽ dựa trên việc phân tích các thong tin có được từ các nguồn khác

nhau để định giá hoặc tìm ra xu hướng biến động giá, làm cơ sở cho việc ra

quyết định đầu tư của mình. Nhất là trong thời điểm thị trường biến động như

thời gian qua, thì các phân tích cơ bản là hết sức quan trọng, đơn giản nhất, nó

chỉ cho nhà đầu tư biết cổ phiếu nào đang có giá cao hay thấp hơn giá trị thực

của nó. Vậy Công ty chứng khoán sẽ định giá chứng khoán theo những

phương pháp nào, hiệu quả ra sao, và tính ứng dụng của các phương pháp đó

trong việc xây dựng danh mục đầu tư như thế nào? Chúng ta sẽ xem xét vấn

đề này ứng với một công ty chứng khoán cụ thể - Công ty chứng khoán Ngân

hang Đông Nam Á – Công ty chứng khoán thứ 34 gia nhập thị trường - thông

Nguyễn Thị Huệ TTCK 45

qua đề tài: “Ứng dụng phân tích cơ bản trong hoạt động tự doanh của công

ty chứng khoán ngân hàng Đông Nam Á”.

Bố cục của đề tài là gồm có 3 chương:

- Chương 1: Những vấn đề chung

- Chương 2: Thực trạng ứng dụng phân tích cơ bản trong hoạt động tự

doanh của Công ty chứng khoán Ngân hang Đông Nam Á.

- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng phân tích cơ bản

trong hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán Ngân hàng Đông Nam Á.

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu việc ứng dụng phân

tích cơ bản vào hoạt động tự doanh của Công ty chứng khoán Ngân hàng

Đông Nam Á, kể từ khi thành lập đến nay, trên Thị trường chứng khoán Việt

Nam.

Do giới hạn về mặt tư liệu cũng như nhận thức, chuyên đề của em chắc

chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, em rất mong được thầy góp ý và sửa chữa để đề

tài của em hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn thầy!!!

Hà Nội ngày 7/4/2007

Nguyễn Thị Huệ TTCK 45

NỘI DUNG

Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG

1. Hoạt động tự doanh của Công ty chứng khoán

1.1. Công ty chứng khoán

1.1.1. Khái niệm và phân loại

Công ty chứng khoán (CTCK) là một định chế tài chính trung gian thực

hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán.

Hiện nay, các CTCK được tổ chức chủ yếu theo 2 mô hình kinh doanh

sau:

•Mô hình công ty chứng khoán đa năng

Theo mô hình, CTCK được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch vụ

tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và

các dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư

cách là các chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ.

Mô hình này được thể hiện dưới 2 hình thức:

- Loại đa năng một phần: theo mô hình này các ngân hàng muốn

kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con

hoạt động độc lập và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ. Mô

hình này còn được gọi là mô hình kiểu Anh.

- Loại đa năng hoàn toàn: các ngân hàng được phép trực tiếp kinh

doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các

dịch vụ tài chính khác. Mô hình này còn gọi là mô hình ngân hàng kiểu Đức.

Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực

kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa

dạng hoá đầu tư. Ngoài ra, mô hình còn có ưu điểm là tăng khả năng chịu

đựng của ngân hàng trước những biến động trên thị trường tài chính tài chính.

Mặt khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình của mình là tổ

chức kinh doanh tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ về

Nguyễn Thị Huệ TTCK 45

khách hàng cũng như các doanh nghiệp khi họ thực hiện nghiệp vụ cấp tín

dụng và tài trợ dự án.

Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế, đó là do vừa là tổ chức

tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán, do đó khả năng chuyên môn

không sâu như các CTCK chuyên doanh. Điều này sẽ làm cho TTCK kém

phát triển vì các ngân hàng thường có xu hướng bảo thụ và thích hoạt động

cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ của TTCK.

Đồng thời, do khó tách bạch được hoạt động ngân hàng và hoạt động

kinh doanh chứng khoán, trong điều kiện môi trường pháp luật không lành

mạnh, các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường, và khi đó

các biến động trên TTCK sẽ tác động mạnh tới kinh doanh tiền tệ, gây tác

động dây chuyền và dẫn đến khủng hoảng tài chính. Bên cạnh đó, do không

có sự tách biệt rõ rang giữa các nguồn vốn, nên các ngân hàng có thể sử dụng

tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán, và khi TTCK biến động

theo chiều hướng xấu sẽ tác động tới công chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền

gửi, làm cho ngân hàng mất khả năng chi trả. Do những hạn chế như vậy, nên

sau khi khủng hoảng thị trường tài chính 1929-1933, các nước đã chuyển sau

mô hình chuyên doanh, chỉ có một số thị trường (Đức) vẫn còn áp dụng mô

hình này.

•Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh

Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty

độc lập và chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân

hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.

Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân

hàng, tạo điều kiện cho các CTCK đi vào chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực

chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển. Mô hình này áp dụng khá rộng

rãi ở các thị trường Mỹ, Nhật và các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Thái

Lan…và hiện Việt Nam cũng đang áp dụng theo mô hình này.

Nguyễn Thị Huệ TTCK 45

Tuy nhiên, do xu thế hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ nên

ngày nay một số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên nhiều lĩnh vực tiền

tệ, chứng khoán, bảo hiểm nhưng được tổ chức thành các công ty mẹ, công ty

con và có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và hoạt động tương đối độc lập với

nhau.

1.1.2. Vai trò, chức năng của CTCK

Hoạt động của TTCK trước hết cần những người môi giới trung gian, đó

là các CTCK - một định chế tài chính trên TTCK, có nghiệp vụ chuyên môn,

đội ngũ nhân viên lành nghề và bộ máy tổ chức phù hợp để thực hiện vai trò

trung gian môi giới mua – bán chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một

số dịch vụ khác cho cả người đầu tư lẫn tổ chức phát hành.

Công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của

nên kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng. Nhờ các CTCK mà chứng

khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới người đầu tư và có tính thanh

khoản, qua đó huy động nguồn vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bổ vào những nơi

sử dụng có hiệu quả.

Chức năng cơ bản của CTCK:

- Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt từ người có tiền nhàn rỗi đến

người sử dụng vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành)

- Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp giá

hoặc khớp lệnh

- Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán

- Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường

Vai trò của CTCK:

Với những đặc điểm trên, CTCK có vai trò quan trọng đối với những chủ

thể khác nhau trên TTCK.

Đối với các tổ chức phát hành. Mục tiêu khi tham gia vào TTCK của

các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành chứng

Nguyễn Thị Huệ TTCK 45

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!